KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – BÍ ẨN CUỐI CÙNG (Tiếp theo và hết)
1. Cuộc hành trình “dang dở” của nhà văn Thanh Châu:
Sau khi kết thúc bằng 4 bài thơ đăng trên hai tờ báo Tiểu thuyết
thứ bảy (trụ sở tại số 93 phố Hàng Bông - Hà Nội) và Phụ nữ **(số 7 phố Hội Vũ
- Hà Nội) trong hai năm 1937 - 1938 của TTKh, nhà văn Thanh Châu có viết một
bài tùy bút nhan đề Những cánh Hoa tim vào Mùa Thu năm 1939 (Hoài Việt - Thâm
Tâm và TTKh - NXB Hội nhà văn 1991). Thì gần đây nhất cũng lại vào Mùa Thu năm
1990 ông viết bài cuối cùng với tựa đề Nói thêm về TTKh và mở ngoặc Tác giả
những bài thơ nổi tiếng từ 1937. Bài viết được đăng trên Nguyệt san văn hóa số
cuối năm 1990 (sau đó in trong cuốn sách của Hoài Việt - “Thâm Tâm và T. T. Kh”
- NXB Hội nhà văn 1991).
Ông viết: “Năm 1989 Nhà xuất bản Khoa học xã hội có in mấy
truyện ngắn của tôi (cùng một số truyện của Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh. v. v…thời
kỳ 1930 - 1945). Bởi thấy còn nhiều người muốn hiểu rõ hơn về T. T. kh, tôi đã
đưa in lại truyện ngắn Hoa tigôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ
bảy - Truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T. T. Kh, nên sau đó tòa soạn Tiểu thuyết
thứ bảy nhận được mấy bài thơ của TTKh gửi đăng liền được bạn đọc đương thời
chú ý… Thời tạm chiếm (Pháp) ở Hà Nội, thời Mỹ ở Sài Gòn vẫn có báo đăng nhắc
chuyện TTKh và từ giải phóng miền Nam tới nay, người đọc các báo văn nghệ, sách
nhà xuất bản văn học (thơ Thâm Tâm) vẫn lại thấy có người tranh cãi về T. T.
Kh. Vậy TTKh là ai? có phải là Trần thị Khánh? hay Tào thị Khê? hay Tôn thị
Khuê? Trần thị Khải, Thái thị Khương? Ai mà biết được? cho nên cuối truyện ngắn
Hoa Tigôn in lại năm 1989 tôi đã phải viết: TTKh là ai? Lúc trước (1937) tác
giả đã không cho biết địa chỉ, cũng như không chịu “xuất đầu lộ diện” cho tới
ngày nay, nếu còn sống TTKh phải là lớp “cổ lai hy” rồi. Vậy có nên quí trọng
sự khiêm tốn của nhà thơ, hẳn có lý do “ẩn tích” của mình.
Viết như vậy đâu có ổn. Như thế khác gì người đặt bó hoa lên
ngôi mộ vô chủ, rồi ra về? Nhưng bạn đọc yêu thơ lại đòi hỏi khác. Người ta
muốn biết TTKh đã vì ai, cho ai mà có thơ? và người yêu TTKh có đích thị là
Thâm Tâm hay Nguyễn Bính hay ai nữa? . . .
Năm 1986, anh Tô Hoài (trong bài viết về Trần Huyền Trân, đăng
tuần báo văn nghệ số 45 tháng 11 - 1986) cũng lại nhắc: “Câu chuyện tình u uẩn
mà nhiều báo một thời bàn tán sôi nổi, nào là Hai sắc hoa Tigôn, nào T. T. Kh,
nào Thâm Tâm và Khánh hay ai? Những éo le mơ hồ, các anh Thanh Châu, Thâm Tâm,
Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, những đồng tác giả ấy - hôm nay cũng còn có bạn
có thể kể lại rành rõ được hay là cứ để mờ ảo mãi như thế? ”. . . Hôm nay, nhân
tìm lại những tư liệu còn giữ được, tôi muốn kết thúc cái chuyện cũ càng“mờ
mịt” này bằng cách công bố thêm một điều lạ, là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này,
khiến thiên hạ càng đoán phỏng, đoán mò - Chỉ tại Nguyễn Bính đăng một bài thơ
(đề tặng T. T. Kh) bài Cô gái vườn Thanh in năm 1940. Đọc lại bài này, người ta
thấy Nguyễn Bính có đến vườn Thanh, trọ nhà một ông già, ông này kể cho nghe
chuyện một thiếu nữ “Đêm đêm bên cạnh chồng già - Và bên cạnh bóng người xa hiện
về”…Và rồi Nguyễn Bính tự hỏi:
…Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình năm xưa
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ấy bây giờ là đây?
Một người thơ đa tình như Nguyễn Bính: - “Chuyện xưa hồ lãng
quên rồi - Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh” (tức T. T. Kh) bèn ra thơ đề
tặng TTKh (Cô gái vườn Thanh) người mà Nguyễn Bính chưa hề biết mặt. Bởi vậy,
có người đã khẳng định sau khi đọc bài thơ Nguyễn Bính rằng: - “Chính ông Bính
là người yêu của TTKh rồi làm thơ người ta tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia -
Như thi sĩ Ác - ve đã kín đáo trong thơ ông ta vậy”. Người thứ hai làm cho mọi
người gần hơi thỏa mãn chính là Thâm Tâm, khi có bài Màu máu Tigôn (gửi T. T.
Kh, tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn).
Theo tôi, đây là một bài thơ dở nhất, không xứng với thơ Thâm
Tâm, mặc dù tác giả nói là “K…hỡi người yêu của…”. ? Đến nay, tôi không hiểu
bài thơ này in ở đâu? Lấy ở đâu ra, sau này lại do Mã Giang Lân tuyển in vào
tập Thơ Thâm Tâm (do nhà xuất bản Văn học in năm 1988 mà không đề năm tháng? )
Liền sau bài Màu máu Tigôn này, nói là của Thâm Tâm “tặng T. T. Kh” lại thêm
bài Các Anh (cũng ở tập Thơ Thâm Tâm nói trên)… Cũng may, với sự nghi ngờ có
thể hai bài thơ trên là “thơ dởm” lời thơ thô vụng không chắc của Thâm Tâm, tôi
đã tìm đến ông Phạm Quang Hòa, nghe nói ông trước kia có làm thơ và quen với
Thâm Tâm, còn giữ được nhiều thơ cũ. Ông Phạm Quang Hòa đã chép cho tôi một bài
thơ giống như bài Các Anh nói theo ông Phạm Quang Hòa thì đây là bài thơ Thâm
Tâm trả lời T. T. Kh, sau khi có Bài Thơ cuối cùng của TTKh đăng báo Tiểu
thuyết thứ bảy(? ). Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài Các Anh,
chỉ đúng có 8 câu đầu là của bài Các Anh tiếp theo còn 47 câu thì bỏ, để lại
bắt vào đoạn cuối của bài Các Anh với 7 câu kết (như trong bài Các Anh).
Vậy thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài Các Anh (đã in ở sách
Thơ Thâm Tâm - NXB Văn học 1988? ) Với vỏn vẹn có 16 câu? Nếu trích ở đâu sao
không nói rõ?. Về ông Phạm Quang Hòa, ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm
Tâm, nên mới có “Bài thơ trả lời T. T. Kh” của Thâm Tâm mà ông giữ được cho đến
nay, nhưng sao đọc những câu thơ như:
Tiếng xe mở lối vu quy
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn ghi…
Khánh ơi! Còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên…
Rõ ràng lời thơ không xứng đáng với mối tình tha thiết và cay
đắng của một thiếu phụ như TTKh đã giữ hẹn xưa:
- Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ
Tình cảnh một người có chồng, không quên được người cũ, muốn giữ
kín chuyện riêng, lúc nào cũng:
- Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết…
Trong khi đó “người đàn ông của mình” cứ bô bô réo tên mình lên
trong thơ hết K…ơi, lại Khánh ơi. Đến nỗi TTKh phải kêu lên:
- Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng…
Đã thế lại còn Bài thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của
TTKh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)? Bài thơ như TTKh đã nói rõ:
- Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem…
Với mục đích gì “Người yêu của T. T. Kh” lại đăng lên báo Bài
thơ đan áo để đến rồi TTKh phải “nặng lời”:
- Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh…
Một người nghiêm túc như Thâm Tâm mà anh, em văn nghệ thời trước
từng quen biết, có thể có cử chỉ và lời thơ dễ dãi, vô ý thức như vậy không? Đó
là sự đáng ngờ. Vì vậy , ngày Trần Huyền Trân còn chưa lâm bệnh nặng, tôi đã
hai lần gặng hỏi anh về mối tình của Thâm Tâm và TTKh có thực có hay không và
Trần Huyền Trân người bạn “nối khố” của Thâm Tâm đã khẳng định là không từng
nghe Thâm Tâm nói đến. Vậy người yêu thực của Thâm Tâm là ai? Có phải là TTKh
như lâu nay nhiều người nghe nói? K… và TTKhlà một hay hai? Có người nói: Vào
thời thơ TTKh nổi lên như thế, có nhiều anh tự nhận là người yêu của họ, nên
Thâm Tâm đã phải kêu cái tên Khánh lên rõ to, để mọi kẻ có ý đồ xấu phải im
tiếng và hiểu rằng “Hoa kia đã có chúa xuân” Như vậy lại càng không đúng tư
cách Thâm Tâm…
Cho nên, một số bạn thơ văn đích thực là bạn của Thâm Tâm thường
nói: “Thâm Tâm qua đời lâu rồi mà TTKh nếu còn sống cũng đã già lão quá rồi,
nên để họ yên nghỉ với giá trị không thể chối cãi một thời của họ. Những danh
Nhân chết đi bao giờ chả để lại cho người sau vô số huyền thoại, cái đúng, cái
sai, cái “dỏm”. Đó là vinh dự của danh Nhân, không phải vinh dự cho người muốn
gắn tên tuổi mình vào hào quang của người đã khuất…”
Thời Mỹ, ông Vũ Bằng (vào quãng cuối tuần báo Tiểu thuyết thứ
bảy) di cư vào Sài Gòn có dựng câu chuyện: “Quang Dũng là con trai cụ Tản Đà”
và nói về TTKh, họ Vũ cũng chép tên thi sĩ Leiba vào, làm mọi người chả hiểu ra
sao. Những ai đã từng làm báo với họ Vũ cũng đều thuộc “ngón” làm ăn này của họ
Vũ. Leiba (tức Lê văn Bái) có thời gian ngắn làm báo Ích Hữu (của Tân Dân) sau
đó thi đỗ, làm ông Phán tòa sứ Sơn Tây rồi mất (1941). Leiba là lớp trước Thâm
Tâm, không quen biết gì nhau. Đây chỉ là cách làm báo phao tin “giật gân” cho
chạy báo. Cũng cùng một loại phao tin thất thiệt đó, tôi còn nghe một chuyện
tức cười nữa là có người “khẳng định” người yêu của Thâm Tâm là em gái cùng
Cha, khác Mẹ với nhà thơ Tế Hanh… Buồn thay, lớp người 1930 - 1945 trong văn
học đã theo nhau “đi”gần hết. Còn sót lại có Lưu Trọng Lư, Bùi Hiển, Tô Hoài…
Nửa đêm chợt tỉnh anh Lư có còn nhớ nhiều không, với sức nhớ của người trên 70
rồi?
Viết đến đây, tôi muốn cung cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết
về TTKh trước khi chấm dấu cuối cùng: - Hồi 1937, tôi có nhận được một thư trả
lời tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy của T. T. Kh. Tôi nhớ đại ý người làm thơ
không muốn cho địa chỉ để chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời mình “chả
ra sao”. Bức thư đó, cũng như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo, ai giữ làm
gì? Hơn nữa, hồi đó tôi còn trẻ, nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “Phụ
nữ làm thơ”. Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức
thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành có giá. Còn chuyện nữa xin kể nốt: -
Hồi làm báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội, vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hóa,
nên thời thường vẫn đi về, cũng như Nguyễn Tuân và Hồ Dzếch có gia đình ở thị
xã này. Một hôm, tôi không có mặt ở nhà thấy mẹ tôi bảo: “Có một người con gái
đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo lui”. Từ đó,
không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng
thời gian này báo đã đăng mấy bài của TTKh rồi, vậy đó là người đã đọc truyện
Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ của TTKh mà tìm đến?
“Ở lại vườn Thanh có một mình”. Có thể người này vốn dân thị xã
này chăng? Sao tôi không biết, không từng gặp? Lại nữa, nếu như có thực tên
người yêu của Thâm Tâm là… Khánh, Trần Thị Khánh thì bài thơ Các Anh đã gọi
toẹt ra rồi. Chỉ có tôi đến hôm nay là còn chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ TTKh
và Thâm Tâm, người nào chẳng nói được căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: “Khánh
ơi” còn hỏi gì anh? Khánh ơi, còn đợi gì anh…? Chả thầy bói cũng nói trúng tên:
“Người ấy” T. T. Kh (tức Khánh). Năm tháng đã cuốn theo chiều gió bao chuyện
vui buồn. Cái gì còn lại vẫn là tài năng, đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc
đến TTKh là do sức sống của thơ. Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong
hai bài thơ đầu (mùa thu tâm sự đầy khắc khoải)… Lại có người nhấn mạnh mấy chữ
lúc thì tôi, lúc thì em trong thơ T. T. Kh (vừa giận vừa thương của một tấm
lòng tha thứ, khi thấy người yêu làm vỡ lở tình duyên cũ).
Riêng tôi, đọc lại thơ TTKh tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ
bà này khác xa thơ của ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng
thời. Thơ TTKh không có những chữ: - Ly khách, ải xa, trường thành. quan san,
cô phụ, đoạn trường…(Thâm Tâm) hay: - Rau tần, ngõ trúc, giọt dòng, lưu biệt,
thiên thu, tịch liêu… (Nguyễn Bính). Thơ TTKh kể chuyện mình một cách giản dị,
không sáo ngữ… không cố tìm chữ lạ, không làm dáng nên dễ đi vào lòng người,
nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng
tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả
cái giận, nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không
dứt được… thật chân thành. Từ 1937 đến 1938, để lại 3 bài thơ chuyên tả tâm sự
mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T. T. Kh.
TTKh là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai? Tôi không
tin rằng ai đó tìm ra bà, nếu bà còn đã đáng bậc bà - không thể được bà sẵn
lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi, đào sâu chôn chặt mối tình đau xót
bất hạnh của mình mà có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt
hẳn không giống kẻ kém tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ tình được lên báo,
vì danh hay vì lợi. Với sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi
trong quá khứ, chúng tôi viết bài này và đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất
vô nhị của bà, để chúng ta cùng thưởng thức. ”
“Mùa thu 1990 - THANH CHÂU”
Đọc thật kỹ những gì ông vừa viết rồi so sánh với bài tùy bút
Những cánh Hoa tim vào Mùa Thu năm 1939 cũng của ông, chúng ta thấy rõ một điều
là: - Ngoài việc “tự sự” về những cảm xúc của một thời đã qua. Ông cũng làm cái
việc như chúng ta đang làm từ đầu đến giờ, đó là đưa ra những sự kiện, dẫn
chứng để phân tích, chứng minh rằng Thâm Tâm, Nguyễn Bính hay bà Trần Thị Khánh
nào đó không phải là T. T. Kh, hay nói cách khác là TTKh không liên quan gì tới
họ! với sự tỉ mỷ từng câu chữ trong thơ của những người liên quan như trong bài
viết…Nhưng khác chúng ta lại là ở chỗ: - Tại sao và với lý do gì mà ông không
“đi” đến tận cùng của sự việc như chính ông vừa viết ở trên: Viết như vậy đâu
có ổn. Như thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ, rồi ra về? Người ta
muốn biết TTKh đã vì ai, cho ai mà có thơ? Vì sao ông lại không muốn chứng minh
ai là TTKh như chúng ta đã và đang làm? Để cho đến tận cùng, chúng ta cùng phân
tích, lý giải điều“bí ẩn”có thể coi là cuối cùng này cho hết lẽ.
Đầu tiên, như các phần trước đã chứng minh thì nay chính nhà văn
Thanh Châu cũng xác nhận: truyện ngắn Hoa tigôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo
Tiểu thuyết thứ bảy - Truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T. T. Kh, nên sau đó tòa
soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được mấy bài thơ của T. T. Kh. Lý do thực sự vì
sao thì chúng ta cũng đã biết…Và ông viết: hồi đó tôi còn trẻ, nên không mấy
quan tâm đến chuyện các bà “Phụ nữ làm thơ”… khi ta so sánh với câu cũng của
chính ông tâm sự trong bài tùy bút Những cánh Hoa tim: Nhưng điều mà tôi lấy
làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy, ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà
TTKh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn)… bài thơ tả cái tâm sự não nùng, thầm kín của
một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ… Bài thơ hay và xúc động đến
nỗi chính ông cũng đã phải thừa nhận: tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu
thuyết. Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà TTKh có thể viết nên những vần (thơ)
réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo
kể lắm, thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…Tôi cầu chẳng bao
giờ gặp mặt TTKh để được yêu thơ hơn…
Tại sao lại thế? không lẽ ông lại “tiền hậu bất nhất” với chính
ông? Chắc chắn không thể như vậy, bởi vì khi viết bài tùy bút này là ông đang ở
trong tâm trạng vô cùng đau đớn, xúc động, bồi hồi khi “nhận ra” tình xưa trên
những trang thơ đẫm lệ như than khóc cho một tình yêu đã không thể đến được bến
bờ hạnh phúc của người yêu cũ. Những bài thơ ấy cũng như là một sự “trở về”
vậy, bởi lẽ vì nhiều lý do, kể từ ngày họ phải xa nhau hai người đã gần như mất
liên lạc cho nên những bài thơ ấy giống như một cuốn phim đời đầy xúc cảm liêu
trai hiện về trong nỗi cô đơn nơi đất khách quê người và đó cũng chính là “động
lực” khiến ông viết nên bài tùy bút đầy nỗi niềm tâm sự như một “thông điệp”
bày tỏ tấm lòng với “người ấy” của mình…Khi viết những dòng trên, phải chăng đó
chỉ là “biện pháp”đánh lạc hướng giúp ông né tránh việc tò mò của người đời
muốn biết về danh phận, sự liên quan của hai người cũng như những nội dung thực
sự ẩn chứa “bên trong” bức thư của TTKh như ông cho biết: - Nếu tôi là người mê
thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng
thành có giá. ? …
Câu chuyện“Có một người con gái đến chơi, không chịu nói tên,
chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo lui”. Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ?
Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng thời gian này báo đã đăng mấy bài
của TTKh rồi, vậy đó là người đã đọc truyện Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ
của TTKh mà tìm đến? . . Đọc đến đoạn này chúng ta cảm thấy có một điều gì đó
hơi “lấn cấn” và cũng giống như trong bài tùy bút, chỉ khác là hồi đó ông viết:
Một buổi trưa có hai người đàn bà…. Đọc đi đọc lại đoạn văn trên, chúng ta thấy
rõ ràng là không lẽ lại có người đoán ra vì có truyện ngắn Hoa Tigôn nên mới có
thơ của T. T. Kh? Vì vào thời đó làm gì đã có đủ mọi nguồn tư liệu như ngày nay
để có thể hiểu được “móc xích” của sự việc mà chỉ mình ông và một người nữa ở
“trong cuộc” biết? Trong khi chính điều này mới là lý do chủ yếu để tồn tại bí
ẩn về TTKh kéo dài hơn 70 năm qua với nào là Nguyễn Bính, nào là Thâm Tâm, nào
là Trần Thị Khánh…
Phải chăng vì mang tâm lý chính là “người trong cuộc” nên ông
mới vô tình thay độc giả mà “đoán giúp” rằng: - Có sự liên quan giữa truyện
ngắn và những bài thơ bằng câu hỏi như vậy? hơn nữa, vào thời gian đó đã và
đang rộ lên bao lời đồn đoán làm cho rất nhiều người tin là thật như chúng ta
cũng đã biết, vậy thì tại sao “những người phụ nữ” đó không tìm đến để tặng hoa
các nhân vật vừa kể ở trên? Vả lại nếu vì hay đã yêu thơ của TTKh mà tìm đến
thì tại sao họ không tặng chung cho tòa soạn là nơi đăng những bài thơ mà lại
chỉ tặng riêng ông? hay họ chỉ tặng hoa vì đã đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của
ông? mà nhận xét thật khách quan thì truyện ngắn đó cũng không có gì là đặc sắc
nếu đem so với những tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn cùng thời.
Đến đây, chắc hẳn sẽ có người cho rằng, biết đâu truyện dở đối
với người này nhưng lại hay đối với người khác thì sao? Chúng ta cần phải nhớ
rằng, nếu bỏ qua những tình tiết về những cánh hoa Tigôn thì đây chỉ là một câu
chuyện ngoại tình vốn không thể được chấp nhận trong xã hội đương thời cách nay
hơn 70 năm, nếu có thì cũng chỉ tạo nên sự tò mò chứ không thể là sự ngưỡng mộ
của người đời, đó là một thực tế khó phản bác.
Trừ phi người chồng quá tệ bạc thì nhiều nhất cũng chỉ nhận thêm
được sự cảm thông mà thôi…Cũng trong bài tùy bút ông viết: Thế nhưng, tôi không
khỏi có chút tự kiêu vì đã “tạo” ra được một người đàn bà thi sĩ… Nếu có ai hỏi
tôi làm được điều gì thú vị, tôi xin nói ngay rằng: - Tôi đã viết nên truyện
Hoa Tigôn…(cần lưu ý chi tiết việc có người đến tặng hoa, nếu có, là xảy ra
trước khi có bài tùy bút cũng như bài viết này) đến đây ta thấy được rằng có lẽ
câu hỏi đó chẳng qua cũng chỉ là một giải pháp “gây nhiễu” nhằm dấu kín danh
phận cho T. T. Kh, trong tâm trạng bồi hồi xúc động và đầy nuối tiếc đã khiến
cho ông khó giữ được sự kín kẽ nên có vẻ bị rơi vào tình trạng “dấu đầu hở
đuôi” chăng?
Và đây ông viết: “Ở lại vườn Thanh có một mình”. Có thể người
này vốn dân thị xã này chăng? Sao tôi không biết, không từng gặp? chi tiết Tuổi
tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái có lẽ cũng nằm trong “giải pháp” nêu trên hơn
là sự thật bởi ở cái thị xã bé tí như vậy ai mà chẳng biết về mối tình của ông
Thanh Châu và bà Vân Chung dù đôi ba bạn gái đó chỉ là tình bạn đúng nghĩa?
Cũng có thể người bạn gái đó được bà Vân Chung nhờ đem hoa đến nhà cho nên gia
đình ông Thanh Châu mới không biết mặt? Dù thế nào thì điều này cũng không mấy
quan trọng, vì cần phân tích cho hết lẽ nên chúng ta mới đi sâu một chút chứ
thật ra cũng không mấy ảnh hưởng đến việc chứng minh rằng bà Vân Chung chính là
TTKh như chúng ta đã đạt được từ những phần trước.
Bây giờ, khi “đặt” thật gần nhau lời ông viết: Đã thế lại còn
Bài thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của TTKh đăng lên báo Phụ nữ thời
đàm (phố Hội Vũ)? ** ở phần giữa với câu… đề nghị cho in lại ba bài thơ độc
nhất vô nhị của bà, để chúng ta cùng thưởng thức ở cuối bài viết, chúng ta có
thấy một điều gì đó bất thường không? Tại sao ông lại dùng từ độc nhất vô nhị ?
Tại sao TTKhcó bốn bài thơ mà ông lại chỉ “liệt kê”có ba? không lẽ chỉ vì ba
bài thơ đó được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy thì mới có giá trị? Trong khi ở
trên ông cũng đã khẳng định Bài thơ đan áo là của T. T. Kh? Hơn nữa chúng ta sẽ
phải hiểu và lý giải thế nào đây khi Bài thơ cuối cùng của TTKhcũng có câu, như
một lời minh chứng cho điều đó? :
- Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em…
Phải chăng, đó cũng là một trong những cách “đánh lạc hướng” để
không làm lộ sự liên quan của mình cũng như không để lộ TTKh là ai sau khi ông
đã cố gắng chứng minh rằng mọi lời đồn đoán từ trước đến nay (1990) để “gán
ghép” cho một số nhà thơ là TTKh hoặc là người yêu của TTKh chỉ là những lời vô
căn cứ và không đúng với sự thật? Bởi lẽ, nếu không có Bài thơ đan áo thì khó
mà cắt nghĩa được vì sao TTKhlại phải viết Bài thơ cuối cùng với lời lẽ khá là
gay gắt như thế để làm gì? Còn nếu cho rằng là độc nhất vô nhị thì có lẽ chỉ có
bài thơ đầu tiên Hai sắc hoa Tigôn mới xứng đáng được mang “danh hiệu” này vì
muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận là hay nhất trong số bốn bài thơ mà
TTKhđể lại! …Vì vậy câu hỏi tại sao ông lại “lờ đi” Bài thơ đan áo ở cuối bài
viết mà lẽ ra ông phải viết là đề nghị cho in lại bốn bài thơ độc nhất vô nhị
của bà, để chúng ta cùng thưởng thức chỉ có thể được sáng tỏ nếu chúng ta hiểu
và giải thích như trên mà thôi và thực chất tất cả những gì mà ông đã làm kể từ
bài tùy bút vào mùa Thu năm 1939 đến nay cũng chỉ nhằm mục đích là để trả lại
sự “trong sạch”cho người ông yêu - bà Vân Chung - TTKhtrước những lời đồn đại
của người đời. Cho nên nếu bảo rằng đây chính là cuộc hành trình “dang dở” của
nhà văn Thanh Châu cũng đâu phải là không có lý? . . .
2. Vì sao nhà văn Thanh Châu cũng không chịu tiết lộ ai là T. T.
Kh? :
Ngày xưa TTKh đã viết: - Cố quên đi nhé câm mà nín… như một lời
giao hẹn giữa hai người, ngày nay (1994) bà Vân Chung cũng lại viết trong bức
thư ngỏ đề ngày mùng 4 tháng 11: trải qua bốn mươi năm, cả hai bên đều đã an
phận từ lâu, cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình. Và ông Thanh
Châu cũng đã viết trong bài tùy bút khi xưa: Tôi thì tôi chưa được biết mặt,
biết tên thực của T. T. Kh, tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết
nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Còn
bây giờ (1990) ông đã gần như lặp lại: TTKh là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết
rõ đó là ai? Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà, nếu bà còn đã đáng bậc bà -
không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi, đào sâu chôn
chặt mối tình đau xót bất hạnh của mình mà có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ
một lần rồi dập tắt hẳn không giống kẻ kém tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ
tình được lên báo, vì danh hay vì lợi. Đó chính là lời tự sự đầy trách nhiệm,
đầy nhân cách chỉ có ở những người thực sự đã và mãi mãi yêu nhau trên thế gian
này. Đó cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi ở trên kia một cách đủ đầy nhất,
ý nghĩa nhất khiến cho ta vô cùng trân trọng …
Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhà văn Trần Đình Thu “ghé thăm” ông,
nhà văn Thanh Châu vào một buổi chiều cuối thu nhạt nắng của năm 2003 trong một
căn gác nhỏ ở quận Tân Bình - tp. HCM, một buổi chiều giống như ngày ấy năm xưa
bà Vân Chung – TTKh đã mô tả: Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc - Tôi chờ người đến
với yêu đương…
“…Khi đó ông đang nằm trên giường bệnh, nói năng rất khó khăn
nhưng vẫn cố gắng trả lời những câu hỏi tò mò của tôi. Dù phải chắp nối để nghe
cho rõ câu chuyện nhưng tôi cảm nhận được sự thổn thức trong tim ông khi ông
nhắc lại mối tình đã tan vỡ gần bảy mươi năm về trước. Có lẽ đó là lần đầu tiên
ông tiết lộ vài chi tiết về mối tình bi thương ấy cho một người nghiên cứu như
tôi nghe… Tôi đã đưa đích danh Trần Thị Vân Chung ra để hỏi, nhưng trong lòng
tôi cứ sợ ông chối, không nhận mình là người yêu của bà Trần Thị Vân Chung… vì
thế tôi đã lặng người đi khi ông gật đầu trước câu hỏi đó của tôi. Sợ ông nghe
nhầm câu hỏi, tôi phải hỏi đi hỏi lại ba, bốn lần, ghi âm cẩn thận và ông vẫn
gật đầu: “Vâng, bà Vân Chung và tôi có yêu nhau”.
Sau câu trả lời đó của ông, tôi đi sâu vào chuyện tình và ông đã
không ngần ngại kể cho tôi nghe một số tình tiết câu chuyện… Tôi sung sướng tột
độ trước những thông tin từ tiết lộ chân thành này của nhà văn Thanh Châu. Cùng
đi với tôi có nhà văn Nguyễn Khoa Đăng… Tôi ghé sát vào tai ông và hỏ i(vì khi
đó ông đã khá nặng tai rồi): - Trần Thị Vân Chung có phải là TTKh không ạ? Hai,
ba lần hỏi ông mới nghe rõ và ngó mặt đi chỗ khác: Không!Không phải!Bà Vân
Chung không phải là T. T. Kh. Toàn bày vẽ chuyện.
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng thất vọng ra mặt, nhưng tôi thì khác.
Tôi không hề đón chờ câu trả lời “Vâng, Trần Thị Vân Chung chính là T. T. Kh”
vào lúc này. Dù rằng tôi phải hỏi bằng được câu hỏi ấy. Câu trả lời, nếu có
phải là lúc ông sắp sửa đi xa mãi mãi vào cõi vô cùng. Hoặc có thể là không bao
giờ có câu trả lời ấy…”
Nhận định của Trần Đình Thu là hoàn toàn chính xác, với nhân
cách và tình yêu sâu nặng mà hai người đã (và có lẽ mãi mãi vẫn dành cho nhau)
trong trái tim không ngừng thổn thức để chờ một ngày nào đó có thể cùng nhau
trên con thuyền ngược về dĩ vãng, ông Thanh Châu sẽ không bao giờ tiết lộ điều
mà họ đã ước hẹn từ những năm xa lắm, ngày xưa…
Nhưng chúng ta cũng đừng nên thất vọng, vì như ông nói: - Toàn
bày vẽ chuyện lại không phải là một lời phủ định, vì sao? . Theo nghĩa tiếng
Việt thì “bày vẽ chuyện” chỉ là Đừng có mà nhiều chuyện, đừng có mà tò mò -
thóc mach (chuyện của người khác)…Còn nói theo ngôn từ Miền Nam là : - Đừng có
mà rách việc…Vậy, chúng ta còn mong gì hơn thế?
3. Bí ẩn cuối cùng về bút danh T. T. Kh:
Có lẽ bút danh không xa lạ với loài Người kể từ khi xuất hiện
chữ viết, nhất là đối với các nhà văn, nhà thơ, nhà báo v. v. . . Dĩ nhiên là
chẳng có qui định nào về bút danh phải thế này hay phải thế kia mà hoàn toàn
phụ thuộc vào mỗi cá nhân, ví dụ có người lấy tên con hay tên đệm (tên lót) của
hai vợ - chồng hay người yêu làm bút danh, thậm chí lấy một cái tên nào đó
chẳng liên quan gì đến tên thật của mình hoặc là dùng bút danh với mấy chữ cái
viết tắt, thông thường là dùng chữ cái đầu của Họ - Tên đệm (lót) và Tên thường
dùng. . . đấy là những nét chính của việc dùng bút danh mà chúng ta thường
thấy, chưa kể trường hợp người dùng bút danh nếu không muốn cho ai biết
"mình là ai" chỉ với mấy chữ cái chẳng theo thứ tự nào thì không biết
đâu mà đoán. . . Ở các phần trên chúng ta cũng đã chứng minh được bà Trần Thị
Vân Chung là nữ thi sĩ T. T. Kh!. Còn lại điều bí ẩn cuối cùng chính là cái bút
danh này, bây giờ chúng ta hãy cùng nhau khám phá:
Trước hết, đây là bút danh thuộc "dạng" dùng những chữ
cái đầu tiên của Họ - Tên đệm (tên lót) và Tên thường dùng như chúng ta thường
thấy, nhìn vào ảnh minh hoạ chúng ta dễ dàng nhận ra 2 chữ cái đầu là Họ (Trần)
- Tên đệm (Thị) nhưng không có chữ V (Vân) điều này không khó để lý giải bởi lẽ
khi tác giả đã cố tình dấu kín danh phận thì việc bỏ (thậm chí là dùng chữ khác
hẳn) một tên đệm nào đấy là hoàn toàn dễ hiểu và chấp nhận được. . . nhưng rắc
rối nhất lại là: Tại sao cụm chữ Ch (Tên thường gọi) lại có thể là Kh?
Để lý giải được điều này chúng ta phải ngược thời gian về cách
nay hơn 100 năm trước, đầu tiên việc dùng tên đệm Thị là chỉ con gái và chữ Văn
để chỉ con trai là truyền thống từ xa xưa của các Cụ còn các tên đệm (lót) khác
(ví dụ như: Vân, Thuý. . . ) lại đa phần rơi vào những gia đình khá giả ngày
xưa (xin lưu ý: Đừng nhìn sự việc theo nhãn quan của ngày hôm nay mà hãy
"đặt" mình trong bối cảnh xã hội cách nay trên - dưới một thế kỷ. . .
) Lật lại lịch sử chúng ta cũng sẽ thấy rằng có khá nhiều tên gọi hay địa danh
giữa người Việt và người Pháp "đá nhau" như thế nào xoay quanh hai
chữ cái C và K (chữ trong ngoặc là người Pháp dùng) ví dụ: Bắc Cạn (Bac Kan) -
Móng Cái (Mong Kay) - Lào Cai (Lao Kay).
Một trong những vấn đề lịch sử để lại như sau: Ngày 12/7/1907
toàn quyền Đông Dương Beau ký sắc lệnh thành lập tỉnh Lào Cai, đăng trên công
báo Đông Dương số 1053 ra ngày 18/7/1907 (bản có dấu mang ký hiệu N 1053 - mã
lưu 400 hiện đang được lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc Gia tại Hà Nội) địa danh
Lào Cai được chính quyền Pháp sử dụng trong các loại văn bản và con dấu chính
thức lại viết và gọi là LAO KAY cho đến tháng 11/1950 (sau chiến dịch biên
giới) chính quyền nước VNDCCH mới thống nhất đổi tên gọi là Lào Cai cho đến
ngày nay.
Trong tác phẩm "Đường Kach Mệnh" của Nguyễn Ái Quốc
chúng ta đã thấy chữ C (cách) lại được viết thành chữ K (kach) nhưng có một
điều chắc chắn là cụ Hồ không phải là người đầu tiên "nghĩ ra" để
viết chữ C thành chữ K mà là do ảnh hưởng từ hệ thống hành chính và giáo dục
thời thuộc Pháp. . .
Ông Thanh Châu và Bà Vân Chung cũng từng theo học trong hệ thống
hành chính và giáo dục ấy thì không thể không biết và không thể không bị ảnh
hưởng… Phải chăng vì thế mà bà Vân Chung cũng "sáng tạo" viết chữ C
tên mình thành chữ K và bỏ hẳn chữ Vân để tạo thành cụm chữ cái viết tắt TTKh
mà không để lộ Danh tính?
4. Nhìn lại “chặng đường” đã qua:
Chúng ta cũng vừa “đi” hết chặng đường tái khám phá bí ẩn: - Ai
là T. T. Kh? và đã có thể mở toang được cánh cửa chứa đựng toàn bộ những điều
bí mật từ hơn 70 năm qua để tất cả những ai quan tâm đến câu chuyện tình buồn
này cùng được biết, cùng thấu hiểu, cùng tiếc nuối cho một mối tình đầy lãng
mạn nhưng cũng vô cùng đớn đau của một thời dĩ vãng chưa thể lãng quên và chúng
ta cũng có thể tin rằng đến đây điều bí ẩn Ai là T. T. Kh? sẽ chính thức được
khép lại…
Kết thúc việc tái “khám phá bí ẩn” này chúng ta chắc chắn đã có
được những dữ kiện sau:
A - Cũng như ông Thanh Châu, chúng ta đã chứng minh được rằng: -
Mọi đồn đoán về các nhà thơ như Nguyễn Bính, Thâm Tâm hay Trần Thị Khánh. v.
v…chẳng liên quan gì đến T. T. Kh!
B - Rõ ràng là khi truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu
ra đời thì mới xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của TTKh và những bài thơ
tiếp theo trong hai năm 1937 - 1938. Sự liên quan ấy đến nay cũng đã được
“người trong cuộc” - nhà văn Thanh Châu xác nhận qua bài viết của ông. Như vậy
cũng dẫn đến sự liên quan giữa hai tác giả là nhà văn Thanh Châu và Nữthi sĩ ẩn
danh T. T. Kh!
C - Từ điều đã biết về mối tình giữa ông Thanh Châu và bà Vân
Chung do chính họ xác nhận. Chúng ta cũng đã chứng minh được rằng bà Trần Thị
Vân Chung chính là Nữ thi sĩ T. T. Kh, bởi không ai có được một “Nhân thân”quá
phù hợp và trùng khớp so với tình yêu ngoài đời thực như Bà, mà điều đó đến nay
cũng đã được một “nửa kia” của Bà - nhà văn Thanh Châu gián tiếp thừa nhận.
D - Do hoàn cảnh lịch sử những năm chiến tranh 1954 - 1975 cũng
như một số năm sau đó cho nên ở ngoài miền Bắc đa phần chỉ biết đến hai bài thơ
của bà Vân Chung – TTKh là: - Hai sắc hoa Tigôn và Bài thơ thứ nhất, ngược lại
ở miền Nam suốt từ sau năm 1954 đến 1975 vẫn đều đặn xuất bản các tác phẩm văn
- thơ của thời tiền chiến (giai đoạn 1930 - 1939) và kể cả giai đoạn sau đến
năm 1945… nên nguồn tư liệu nhờ thế mà không bị gián đoạn và cho đến hôm nay,
chúng ta cũng đã biết được một điều chắc chắn là ngoài hai bài thơ nêu trên, bà
Vân Chung - TTKhcòn có hai bài thơ nữa là: Bài thơ đan áo và Bài thơ cuối cùng
như chính nhà văn Thanh Châu xác nhận, bởi ngoài “sự liên quan” ông còn là một
thành viên trong tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nơi đã đăng báo ba trong số bốn
bài thơ đã dẫn vào hai năm 1937 - 1938!.
E - Đây là thể loại “điều tra” về văn học sử, chúng ta không thể
trông đợi những người trong cuộc phải chính thức lên tiếng thừa nhận ai là
TTKhthì mới là điều xác tín vì như thế thì lại không đúng với nhân cách cũng
như hoàn cảnh thực tế của họ! Chúng ta chỉ có thể nhận được sự thật ở họ một
cách gián tiếp mà thôi, vì thế ta phải “đi đường vòng” bằng chính những sự kiện
có thật ngoài đời - các tác phẩm của chính họ và của những người liên quan đến
câu chuyện để từ đó phân tích, lý giải, phản biện và chứng minh nhằm tìm ra sự
thật vốn có một cách thuyết phục nhất có thể, còn nếu vẫn nghi ngờ thì chính
chúng ta sẽ lại phải chứng minh những điều ngược lại từ những tài liệu mà ta
có!Bạn có phản biện được không?
VỀ NGUỒN GỐC TÀI LIỆU:
Những tài liệu có liên quan trực tiếp đến câu chuyện tình buồn
này đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn qua những tác phẩm, bài
viết hay thư tín của các tác giả đã được in ở những nhà xuất bản cũng như các
tờ tạp chí, tờ báo có uy tín từ xưa cho đến ngày nay!. Tuy nhiên, có hai bài
viết và tác phẩm cho đến nay chưa biết rõ chính xác đã được đăng ở báo nào? Đây
là ý kiến của nhà văn Lại Nguyên Ân về vấn đề này gửi cho tôi khi loạt bài này
được đăng trên trang Văn chương Việt
*Về bài viết của Bùi Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng
chiến số tháng 5 năm 1951) ông viết: - “…Tạp chí Văn Nghệ kháng chiến nào? Nếu
là tạp chí Văn Nghệ của Hội văn nghệ Việt Nam, xuất bản tại Việt Bắc, thì tạp
chí này không có số nào ra vào tháng 5/1951, cũng chưa từng đăng bài nào của
tác giả Bùi Viết Tân suốt từ số 1 (ra năm 1948) đến số 56 (ra tháng 10/1954, là
số cuối cùng in ở Việt Bắc). Nói rõ hơn: Sau số kép 27 và 28 (tháng 11 và tháng
chạp năm 1950) Văn Nghệ đổi đề tài, trên thực tế là ngừng khá lâu; số 29 được
ghi là “loại mới” ra ngày 15/8/1951 và trong năm 1951 chỉ ra thêm được 4 số nữa,
tới số 34 (ra ngày 15/12/1951)mà thôi. Vậy đào đâu cho thấy số ra vào tháng
5/1951? . Xin nhắc: - Toàn bộ tạp chí Văn Nghệ thời kháng chiến 1946 - 1954 của
Hội văn nghệ Việt Nam đã được làm thành sưu tập, NXB Hội Nhà Văn in từ năm 1996
đến 2006 gồm 7 tập, do nhà báo Hữu Nhuận và tôi sưu tầm và biên soạn, bạn nào
cần tìm bài vở xuất hiện ở thời kỳ đó, xin tìm sưu tập đó, hiện có tại các thư
viện”
Câu hỏi được đặt ra ở đây là: - Liệu trong thời gian kháng chiến
ngoài tạp chí của Hội văn nghệ Việt Nam xuất bản tại Việt Bắc còn có tờ tạp chí
Văn nghệ nào khác, in ở Liên khu nào đó ngoài Việt Bắc hay không? và nếu không
thì tại sao bài viết ấy ở đâu ra mà lại được các tác giả Thế Phong và Trần Đình
Thu cũng như nhiều tờ báo sau này đăng lại? ví dụ như: - Tuần báo Văn nghệ của
Hội nhà văn, tạp trí Kiến thức ngày nay v. v…
**Về bài thơ Bài thơ đan áo thì một “người trong cuộc” là nhà
văn Thanh Châu viết (năm 1990): “Đã thế lại còn Bài thơ đan áo (1938). Ai đã
đem bài thơ này của TTKh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)? . . . ” Nhà
văn Lại Nguyên Ân cho biết về xuất xứ của mấy tờ báo, trong đó có tờ báo mà ông
Thanh Châu vừa nhắc đến: “Phụ nữ thời đàm không hề đóng tòa soạn ở phố Hội Vũ
bao giờ! Đây là tờ báo tư nhân của ông, bà Nguyễn văn Đa ở 11 - 13 phố sông Tô
Lịch (nay là phố Hàng Lược) ban đầu hoạt động như một tờ nhật báo;số 1 ra ngày
8/12/1930; đến năm 1933 chủ nhân tờ này mời Phan Khôi làm chủ bút, đổi sang
tuần báo, ra số 1 ngày 17/9/1933 kéo dài đến số 26(5/6/1934)sang năm 1938 một
nhóm theo xu hướng Đệ tam quốc tế đã tục bản Phụ nữ thời đàm tại trụ sở 59 phố
Hà Trung - Hà Nội, tờ này chỉ tồn tại được trong gần 4 tháng (25/8/1938 -
12/1938).
Trên thực tế, không hề có việc Phụ nữ thời đàm đăng bài thơ của
T. T. Kh… Tờ báo có thể đã can dự việc đăng thơ TTKh là tờ báo có tên Phụ Nữ
đóng tòa soạn tại nhà số 7 phố Hội Vũ - Hà Nội, chủ nhiệm là bà Nguyễn Thị
Thảo. Chính Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho tờ này nên khi làm bài thơ “Gửi
Trương Tửu” mới có câu “còn tôi bưng thúng cho đàn bà…”(trích theo trí nhớ, có
thể chưa chuẩn xác). Tờ này hiện không còn sưu tập nào lưu ở mấy thư viện lớn ở
Hà Nội, nên ai nói căn cứ vào nó thì hẳn là nói dựa, lấy nguồn gián tiếp từ các
bài hồi ức hoặc bài báo vu vơ nào đó, rất khó chuẩn xác. ”
Như vậy ở đây phải chăng đã có sự nhầm lẫn giữa tờ báo Phụ nữ
với Phụ nữ thời đàm vì quá lâu ngày của nhà văn Thanh Châu như chính ông đã
viết: Nửa đêm chợt tỉnh anh Lư có còn nhớ nhiều không, với sức nhớ của người
trên 70 rồi? . . .
Một câu hỏi nữa là nếu như Chính Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho
tờ này (tức báo Phụ Nữ tòa soạn tại số 7 phố Hội Vũ - Hà Nội) thì tại sao khi
viết câu chuyện “Thâm Tâm và Sự thật về T. T. Kh” (từ trang 297 đến trang 312)
in trong cuốn “Văn - Thi sĩ tiền chiến” - Xuất bản lần đầu năm 1970 - Tái bản năm
2007 ông lại không hề nhắc tới việc Bài thơ đan áo đã được đăng ở báo này vào
năm 1938? . Phải chăng điều đó cũng là một dạng (trích theo trí nhớ, có thể
chưa chuẩn xác) của nhà văn Lại Nguyên Ân? . . . Ông Hoàng Tiến trong bài viết
năm 1989 có nhắc đến Bài thơ đan áo in ở báo Phụ nữ nhưng lại không cho biết
trụ sở tòa soạn nằm ở đâu? Theo như kết luận của nhà văn Lại Nguyên Ân thì hiện
nay tờ báo Phụ nữ này không còn được lưu trữ tại mấy thư viện lớn ở Hà Nội. Vậy
nếu tờ báo này vẫn có thể có ở những nhà sưu tập cá nhân hoặc tại những thư
viện nhỏ thì sao? vì vậy nếu cho rằng: … lấy nguồn gián tiếp từ các bài hồi ức
hoặc bài báo vu vơ nào đó, rất khó chuẩn xác liệu có quá vội vàng? Hơn nữa nếu
không có Bài thơ đan áo thì chắc chắn TTKhsẽ không thể có Bài thơ cuối cùng để
làm gì và chúng ta cũng không thể nào phản bác được sự liên quan “cơ hữu” với
nhau giữa hai bài thơ nêu trên!. . . cho nên thực ra việc tờ báo nào đã đăng
bài thơ này cũng không hề làm ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật về T. T. Kh!. .
. nhưng dẫu sao việc tìm ra được tờ báo nào thực sự đã đăng tải nó cũng là một
việc cần thiết nhằm trả lại một sự thật vốn có của một thời đã qua trong lịch
sử báo chí và văn chương nước nhà…
*THAY LỜI KẾT:
Ngày 28 tháng 9 năm 2007 tôi gặp tác giả của “Giải mã Nghi án
văn học T. T. Kh” Trần Đình Thu lần đầu, tác giả đã ký tặng vào cuốn sách …
Trần Đình Thu chỉ kém tôi vài tuổi cũng coi là cùng một thế hệ, hai chúng tôi
cũng còn gặp nhau vài lần nữa, chủ yếu là cùng bàn luận về cuốn sách cũng như
về bà T. T. Kh, tôi có nêu lên vài thắc mắc về một số dữ kiện chưa được rõ lắm,
Trần Đình Thu kể về cuộc nói chuyện với nhà văn Thanh Châu mà anh đã ghi âm
lại, cũng như lần gặp bà Thư Linh người được ví như Nguồn sáng đầu tiên soi rọi
vào một “cánh cửa” chứa đựng những bí ẩn bên trong mà sau đó Trần Đình Thu
chính là người đã tìm ra chiếc “chìa khóa” để mở cánh cửa này, tuy nhiên có lẽ
do lâu ngày “chiếc chìa khóa” ấy vẫn còn bị bám nhiều “bụi thời gian” nên hơi
khó mở, nó giống như những thắc mắc mà tôi nêu lên chủ yếu là vì tác giả chưa
chú ý phân tích, lý giải thật cặn kẽ cho đến tận cùng về nhiều sự kiện được đưa
ra làm dẫn chứng, đặc biệt là những“bí ẩn” đằng sau việc tại sao những người
trong cuộc lại phủ nhận mình là T. T. Kh. . . một cách thuyết phục. Khiến cho độc
giả vô cùng hoang mang nhất là sau khi đọc hai lá thư ngỏ gửi từ Pháp về của bà
Vân Chung
MỘT SỐ BÀI THƠ CÓ LIÊN QUAN
Hoa Tim (ANTIGONE)
T.T.KH Phương Xa
Giây leo mỏng mảnh kết chùm hoa
Nho nhỏ xinh xinh dáng dịu hoà
Mấy cánh hồng hình tim khắng khít
Bao tua xanh sắc lá nhạt pha
Gió lên lồng lộng bông rơi rụng
Nắng thoảng mờ phai dạ xót xa
Thi sĩ ví như tim vỡ nát
Tình yêu tan tác giống đời hoa
T.T.KH Phương xa
Có còn nhớ đến loài hoa tim này?
Tuổi hồng vương mộng tỉnh say
Đường tơ dở khúc, lòng day ứt buồn
Vườn Thanh xưa, cánh hoa vương
Tóc mây phơ phất ai thường vuốt ve
Tài hoa cát bụi trần che
Non sông giục bước, lòng se sắt lòng
Một chiều thu nắng qua song
Bên nhau Người ấy mắt trông ánh buồn
Rõi theo bóng hạc mờ sương
Vin cành hoa trắng ngắm phương trời chiều
Tay ngà nâng cánh hoa yêu
Thở dài người ấy đăm chiêu nhủ rằng
Hoa như tim vỡ thấy chăng
Sợ tình tan vỡ..Nàng rằng: Không đâu..
Sắc hoa trắng mối tình sâu
Chúng ta hát khúc bạc đầu trăm năm
Hoàng hôn nhạt nét chiêu đăm
Mây trôi lãng đãng, núi nằm cheo leo
Gió lên hoa trắng bay vèo
Duyên thiêng tỉnh mộng, tình treo chỉ mành
Trời xui sóng rộn biển xanh
Hoàng hôn nhuộm tím mối tình đầu tiên
Hoa tim vỡ nát hương nguyền
Lòng thơ lạnh khóc duyên thiêng nữa vời
Người đi ngày một xa xôi
Ngàn dòng tâm sự, một trời nhớ thương
Vườn Thanh hoa cỏ se buồn
Đêm ngày dệt mối tơ vương ngâm sầu
Giải đường xa, bóng ai đâu?
Tiếc thương hoa vỡ nát màu chia ly
Không gian bặt tiếng người đi
Môi hồng lợt sắc, hồn thi thấm sầu
Thắng năm chờ trĩu lòng đau
Áo Trang sinh có gợi màu Hương Quan
Vườn Thanh hoa nát, cánh tàn
Ghi thơ thuơng nhớ, nhấn đàn chờ trông
Mối mai cha mẹ bận lòng
Vâng lời vẹn hiếu áo hồng ủ vai
Bắc, Trung điểm giọt u hoài
Pháo hồng thắm sắc đẹp ngời vinh sang
Duyên lành ủ trái tim tan
Nước mây thương khách đa đoan nghẹn lời
Nhớ, quên...ôi cũng đành thôi
Buồn nghiêng truớng gấm sầu vương mái lầu
Không gian bàng bạc tình đầu
Ai Bâng khuâng nhớ? Ai rầu rĩ thương?
Hoa Tim rụng trắng trong vườn
Hoa tan tác mộng nghẽn đường gió bay
Tái phùng trúc cỗi mai gầy
Lệ thu dàn dụa hương gây mủi lòng
Bài thơ ký tắt não nùng
Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san
Tình xưa ẩn náu thời gian
Người người thương cảm bàng hoàng hỏi: AI?
Lặng câm náu tháng năm dài
Giữ danh chồng há dám phai chữ đồng
Hoa TIGÔN vỡ tim hồng
Cung thương lỡ dỡ tơ lòng đứt dây
Tình yêu man mác trời mây
Vì yêu chịu khổ đoạ đày dở dang
Mối tình đẹp giữa trần gian
Là hoa tim vỡ, mộng tàn kiếp thơ...
"Những dòng thơ hoa: Nghiêm Phái-Thư Linh" NXB Văn Hóa
Thông tin, Hà Nội,1994
------------------------------
CÁC ANH
(Thâm Tâm lên tiếng sau "Bài thơ cuối cùng" của TTKh)
Các anh hãy chuốc thực say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nữa đêm
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn lúc trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đường rời rã đi
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Lặng im tôi viết bài thơ trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cô tưởng rằng tôi là chồng
Để hôm sau khóc trong lòng
Vâng, tôi biết lắm cánh đồng thời gian
Hôm qua gặt hết lúa vàng
Và tôi lỡ chuyến, chiều tàn về không.
Tiếng xe trong vệt bụi hồng
Tôi đi rồi lại nhúng trong khói mờ
Vết xe trong xác pháo xưa
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu quy
Hay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời
Miệng chồng "Khánh" gắn trên môi
Hình anh mắt "Khánh " sáng ngời còn mơ.
Đàn xưa từng chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiết áo lam
Vì dây đã đứt và càng nối dây
Nàng càng cởi mãi trên tay
Vì tơ duyên mới đã thay đổi màu
Góp hai thứ tóc trên đầu
Bao giờ đan nỗi những câu tâm tình
Khánh ơi! còn hỏi gì anh
Lá rơi đã hết màu xanh màu vàng
Chỉ kêu những tiếng thu tàn
Tình ta đã hết anh càng muốn xa
Chiều tàn chiều tắt chiều tà
Ngày mai ngày mốt đều là ngày nay
Em quên mất lối chim bay
Rồi em sẽ ngán trông mây trông mù
Đoàn viên từng phút từng giờ
Đời yên lặng thế em chờ gì hơn
Từng năm từng đứa con son
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành
"Khánh" ơi! còn đợi gì anh
Xưa tình đã vỡ nay tình lại nguyên
Em về đan nốt tơ duyên
Và tà áo mới đừng tìm mối xưa
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa
Hãy giành mà khóc cho giờ vị vong
Bao nhiêu những cánh hoa lòng
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Bản thân anh đã phong ba dập vùi
Hãy im đi các anh ơi
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài "hoa máu" đã gieo nốt đời
Bao nhiêu nghệ sỹ nỗi trôi
Xá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Xá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay.
1938
------------------------------
MÀU MÁU TI GÔN (Thâm Tâm)
Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu TiGôn đã biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang
K hỡi! người yêu của tôi ơi
Nào ngờ em giết chết một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
Hình ảnh em hoài mãi thế thôi
Quên làm sao được thuở ban đầu
Một cánh TiGôn dạ khắc sâu
Một cánh hoa xưa màu hi vọng
Nay còn dư ảnh trái tim đau
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Dứt tình bao nỗi nhớ khôn nguôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỹ niệm ngàn năm một cuộc đời
--------------------------
DANG DỞ
Tặng T.T. KH.
Khi biết lòng anh như đã chết
Mây thôi hồng và lá cũng thôi xanh
Mầu hoa tươi cũng héo ở trên cành
Và vũ trụ thẩy một mầu đen tối.
Em cố giữ lòng anh không bối rối
Ðể mơ màng tưởng nhớ phút giây xưa
Em cùng anh sánh gót dưới bóng dừa
Một đêm trăng sáng trên đường đá đỏ.
Em nói những gì? Anh còn nhớ rõ,
Nhưng làm sao? Ai hiểu tại làm sao?
Chim muốn bay, cũng chẳng giữ được nào
Tĩnh đã chết, có mong gì sống lại!
Anh không trách chi em điều ngang trái
Anh không buồn số kiếp quá mong manh
Có gì đâu khi bướm muốn xa cành
Anh cứ tiếc cái gì xưa đã chết.
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết ,
Anh càng buồn, càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hoá bơ phờ,
Ðây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
Và thành chúc đời em luôn tươi sáng
Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh
Như hương trinh bát ngát ý diu lành
Hoà nhạc mới triều dâng tơ hạnh phúc
Cuộc ly biệt ngờ đâu vừa đúng lúc
Lòng bâng khuâng bối rối trước khúc quanh
Ði không đành, mà ở cũng không đành
Muôn chim Việt hãy về thành Nam cũ.
Chiều nay lạnh có nhiều sương rơi quá
Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi
Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi
Niềm uất hận của một thời lạc lối.
Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối
Ðem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền
Ðể khẩn cầu xin một nụ cười duyên
Nàng kiều nữ chốn lầu hoa thầm kín.
Trong khi ấy thanh niên không bịn rịn
Giã gia đình,trường học để ra đi
Hoạ xâm lăng đe dọa ở biên thuỳ
Kèn gọi lính dục lòng trai cứu quốc
Thôi em nhé! từ đây anh cất bước
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui
Ðừng buồn thương, nhớ, tiếc, hoặc ngậm ngùi,
Muôn việc thẩy đều do nơi số kiếp.
1940
Thâm Tâm
----------------------------
CÔ GÁI VƯỜN THANH
Tặng T.T.KH
"Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên…"
(Thơ T.T.KH)
Gió đưa xác lá về đường
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời
Sầu thương quyện lấy hồn tôi
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm
Một ngàn năm, một vạn năm
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ
Tặng người gọi một dòng thơ
Hay là dòng nước mắt thừa đêm qua
Đường về Thanh Hoá bao xa
Bao giờ về, nhớ rủ ta với nàng
Bảo rằng quan chẳng cho sang
Ai đời quan cấm đò ngang bao giờ
Vườn Thanh qua đấy năm xưa
Trọ nhờ đêm ấy trời mưa tối giời
Quanh lò sưởi ấm bên tôi
Bên người lão bộc nàng ngồi quay tơ
Tuổi nàng năm ấy còn thơ
Còn bao hứa hẹn đợi chờ một mai
Rồi đây bao gió bụi đời
Tôi quên sao được con người Vườn Thanh
Lạnh lùng cái lạnh sang canh
Lòng tôi thao thức với tình bâng quơ
Bởi sinh làm kiếp giang hồ
Dám đâu toan tính xe tơ giữa đường
Thu sang rồi lại thu sang
Cúc bao lần nở lá vàng bao rơi
Bao nhiêu vật đổi sao dời
Đường bao dặm thẳng hỡi người bốn phương
Trọ bao nhiêu quán bên đường
Nhưng không lần nữa tới vườn Thanh xưa
Có nàng năm ấy quay tơ
Tôi quên sao được? Hẳn chưa lấy chồng
Một hôm lòng lại nhủ lòng
Nơi đây giáp với cánh đồng vườn Thanh
Rồi tôi len lén một mình
Ra đi với một tấm hình hay hay
Đường mòn tràn ngập bông may
Gió heo báo trước một ngày thu sang
Dừng chân trước cửa nhà nàng
Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau
Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu
Lá rơi lả tả trên đầu như mưa
Chợt người lão bộc năm xưa
Từ đâu mang mảnh guồng tơ lại nhà
Một hai xin phép ông già
Trọ nhờ đêm ấy nữa là hai đêm
Ông già nể khách người quen
Ngậm ngùi kể lại một thiên hận tình
Rồi ông kết, giọng bất bình:
"Trời cay nghiệt thế sao đành thưa ông
Cô tôi nhạt cả môi hồng
Cô tôi chết cả tấm lòng ngây thơ
Đâu còn sống lại trong mơ
Đâu còn sống lại bến bờ sông yêu
Buồng the sầu sớm thương chiều
Khóc thầm biết có bao nhiêu lệ rồi
Tơ duyên đến thế là thôi
Thế là uổng cả một đời tài hoa
Đêm đêm bên cạnh chồng già
Và bên cạnh bóng người xa hiện về…"
Rùng mình tôi vội gạt đi
Già ơi, thảm lắm, kể chi dài dòng
Cháu từ mắc số long đong
Yêu đương chìm tự đáy lòng đã lâu
Đau thương qua mây nhịp cầu
Cạn dòng nước mắt còn đâu khóc người
Dối già một chút mà thôi
Nghe lời già kể cháu mười đêm luôn
Chợt thương, chợt khóc, chợt buồn
Cháu như một kẻ mất hồn già ơi
Truyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu gian khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình năm xưa
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ấy bao giờ là đây
1940
Nguyễn Bính
Nhận xét
Đăng nhận xét