KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 4
 |
| Chú thích ảnh ở cuối bài |
1. TTKh thật sự là ai?:
Từ các phần trước chúng ta đã biết được xuất xứ và nguyên nhân
của sự “xuất hiện” những bài thơ của tác giả TTKh cùng những sự kiện liên
quan…Chỉ còn lại một “ẩn số” quan trọng nhất là câu hỏi: TTKh thật sự là ai?
Để trả lời cho câu hỏi đó thì TTKh ngoài đời thực phải thỏa mãn
những “Điều kiện” sau:
a/Phải xuất thân từ một gia đình khá giả (thì mới là “nạn nhân”
của vấn đề môn đăng - hộ đối)
b/Được học hành theo lối “tân học” (thì mới chịu ảnh hưởng của
nền thơ Pháp như phong trào “thơ mới” đương thời và phù hợp với “giọng thơ”của
4 bài thơ đã đăng báo)
c/Là người yêu của nhà văn Thanh Châu
Chúng ta cũng đã biết về tình yêu ngoài đời thực của nhà văn
Thanh Châu và lý do tại sao hai người không lấy được nhau… chỉ còn tên của
người yêu ông cũng như gia cảnh, sự nghiệp của Bà là chúng ta chưa biết…
Người đó là bà Trần Thị Vân Chung sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919
trong một gia đình buôn bán khá giả tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố
Thanh Hóa) Bà là con gái thứ ba trong gia đình có tám anh, em (ba trai, năm
gái) trên Bà còn một chị gái và anh trai cả chính là bạn của nhà văn Thanh
Châu. . . Cũng như ông Thanh châu, trước Bà có theo học trường Cao đẳng tiểu
học Vinh… chồng bà là ông Lê Ngọc Chấn một cử nhân luật, sau này (trước năm
1945) có thời gian làm quan tri huyện rồi cả gia đình di cư vào Miền Nam sinh
sống, về văn chương bà Vân Chung thường hay làm thơ, viết văn với bút danh là
Vân Nương hoặc Tam Nương.
Bà tham gia nhóm thơ “Quỳnh Dao” cùng với nữ sĩ Mộng Tuyết, Tôn
Nữ Hỷ Khương, Việt Nữ, Như Hiên… cùng nhau xướng họa như một sinh hoạt tinh
thần và cũng có vài bài thơ đăng báo thời kỳ trước năm 1975… năm 1986 Bà cùng
các con sang Pháp định cư cho đến nay và vẫn tiếp tục làm thơ, đăng trên các
tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài…
“Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một
điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc” (trong lần tác giả
Trần Đình Thu gặp nhà văn Thanh Châu) cũng như được bà Vân Chung “gián tiếp”
xác nhận (trong hai bức “thư ngỏ” viết tại Pháp ngày mùng 1/10/1994 và
4/11/1994 gửi cho bà Thư Linh đồng thời đăng trên báo Thanh Niên và tạp chí
Nguyệt san văn hóa tp. HCM số cuối năm 1994). Cả hai người trong cuộc chỉ đều
xác nhận rằng: Họ chính là người yêu của nhau thuở trước, cũng như hoàn cảnh,
sự nghiệp của hai người chứ không hề tiết lộ ai là TTKh hay ai là người yêu của
TTKh.
Đó cũng là điều hết sức bình thường và dễ hiểu ở lớp “người xưa”
và có nhân cách. Như vậy, so với “tiêu chuẩn” tối thiểu cần phải có theo lôgich
của sự việc mà ta đặt ra để phục vụ cho việc “điều tra” bí ẩn văn chương này
thì rõ ràng là đã vượt quá cả sự mong đợi vì trên thực tế ngoài cả ba “tiêu
chuẩn” trên đều đạt thì bà Vân Chung còn là một thi sĩ…
Bây giờ, từ những thông tin xác thực ngoài đời về mối tình của
hai người trong cuộc, chúng ta cùng so sánh với những câu “chuyện thơ” của TTKh
xem có gì “tương ứng” không?:
Sau khi học xong tiểu học Vinh, ông Thanh Châu ra Hà Nội tiếp tục
học trong trường Đạo và bắt đầu sự nghiệp văn chương từ giai đoạn này, trên
chuyến tàu “định mệnh” ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái chính là bà Vân
Chung, bắt đầu cho một mối tình đầy lãng mạn và đắm say, những buổi chiều tà
thường khi vẫn làm cho ta có cái cảm giác thẫn thờ của những nỗi buồn không
tên, thế nhưngngười con gái đang yêu lại không bị ám ảnh bởi điều đó mà thay
vào là một tâm trạng hồi hộp chờ đợi người yêu tới, một cô gái mới lớn với tình
yêu đầu đời thì cảm xúc này của bà Vân Chung khi ấy cũng là rất thật vậy và
TTKh cũng như muốn “chia sẻ” cảm xúc của mình:
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Sống trong một xã hội còn tư tưởng phong kiến rất nặng nề, không
phải là ông Thanh Châu không ý thức được gia cảnh nhà mình nếu so với gia cảnh
người yêu về vấn đề “môn đăng - hộ đối” phải chăng vì thế mà ông mới “nói” (qua
“lời kể” của TTKh) và câu thơ cũng rất trùng khớp với hình ảnh của một người “đứng
tuổi” thường vuốt tóc nàng như ông đã miêu tả trong bài tùy bút Những cánh hoa
tim vì trên thực tế ông hơn bà 7 tuổi mà với ngày xưa đã là một khoảng cách khá
lớn:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: “Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”
Bà Vân Chung khi đó còn trong lứa tuổi đầy mộng mơ nhìn đời toàn
thấy mầu hồng thì làm sao mà ngờ được sẽ có ngày cuộc tình đẹp như mơ ấy lại
trở nên vô vọng, chia ly? Và ta thấy TTKh cũng đã viết:
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp:“Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”
Mới một mùa thu trước Vân Chung còn sống trong mơ mộng cùng mối
tình đầy lãng mạn đầu đời, thế rồi vì Người đó mách anh Chấn nhà chị, sau đó
gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn… điều mà trước đây
không bao giờ ngờ tới thì nay đã thành sự thật, cho nên bà đành phải gạt lệ để
ngậm ngùi tiễn biệt người yêu ngược về một phương trời khác,và đây TTKh viết:
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Sau khi đành phải nuốt lệ chia ly với mối tình đầu, ông Thanh
Châu đã bỏ ra Hà Nội lập nghiệp, bà Vân Chung ở lại quê nhà nếu vẫn còn thầm
tưởng nhớ tới người xưa bằng những hình tượng vô cùng lãng mạn của người con
gái đang yêu thì cũng là rất đời thường và quả là phù hợp với mấy câu thơ:
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Ngày xưa, không biết do đâu mà các Cụ nhà ta hay dùng lối nói
tắt địa danh, ví dụ Hải Phòng thì hay gọi là Phòng (đi tầu Phòng, đợi tầu
Phòng…) vì thế chi tiết Vườn Thanh có lẽ cũng chỉ là một cách nói hoa mỹ để chỉ
địa danh Thanh Hóa, cũng như dùng từ Xứ Thanh mà thôi.
Đọc lại truyện ngắn Hoa tigôn ta thấy có chi tiết Chàng họa sĩ
rủ người yêu cùng mình trốn sang Nhật bản để làm lại cuộc đời, Nàng nhận lời
nhưng phút chót lại không thể vượt qua được vòng lễ giáo, để rồi những ngày sau
phải sống trong nuối tiếc cho đến lúc nhắm mắt, xuôi tay… Phải chăng TTKh cũng
muốn nhắc đến điều tương tự khi cuộc tình duyên của mình không thành?:
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Thực tế thì bà Vân Chung phải lấy chồng là do gia đình ép gả và
đây TTKh cũng viết:
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Ông Thanh Châu cũng đã đành phải gạt lệ ra đi, vì có ở lại mà
nhìn cảnh người yêu bước lên xe hoa về nhà khác thì cũng chỉ thêm đau lòng,
chẳng thể nào khác được. Vì thế ngày lấy chồng của Bà mới thật là vô cùng buồn
tủi và vô vọng, đó cũng chính là tâm trạng thật trống trải của TTKh:
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
Vì nhiều lý do, nhất là ảnh hưởng của vòng lễ giáo họ không còn
liên lạc được với nhau như thuở nào và thực tế sau khi mối lương duyên không
thành, ông Thanh Châu đã ra ở ngoài Hà Nội lập nghiệp, rồi từ đó họ không còn
gặp nhau được nữa, bà Vân Chung một mình ở lại Vườn Thanh cho đến khi lấy chồng
trong đau đớn, trong nỗi niềm đắng cay của cả hai người… dường như TTKh cũng
muốn “xác nhận” điều đó, giống như một tiếng kêu than xé lòng và cũng đầy ai
oán :
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi!Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
Hoàn cảnh và nguyên nhân bà và chồng lấy nhau, kể ra thì cũng
khá là “tiểu thuyết”:“…Chị thuật lại là do anh Chấn về Thanh thăm Mẹ, đi qua
hiệu chụp hình nhìn thấy ảnh chị, anh Chấn tìm bạn dẫn đến tiệm chụp hình
hỏi:Có biết người này là ai không? Người đó mách anh Chấn nhà chị, sau đó gia
đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…” (Trích thư của bà Thư
Linh-gửi bà Vân Chung, viết ngày 20/9/1994 tại tp. HCM) và như chúng ta cũng đã
biết ông chồng của bà Vân Chung đỗ cử nhân luật, gia đình khá giả hơn hẳn gia
cảnh của ông Thanh Châu thì việc gả cho bà cũng là điều dễ hiểu bất chấp là bà
có yêu hay không…cho nên TTKh mới than rằng:
Và một ngày kia tôi PHẢI YÊU
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều
Ta thấy ngay rằng chẳng có ai đi lấy chồng vì yêu và được yêu mà
lại dùng từ “phải” cả, rõ ràng điều đó nói lên rằng: Đây là mối lương duyên
hoàn toàn do ép buộc và đây chỉ là một tình yêu đơn phương theo kiểu tình yêu
“sét đánh” lại được tư tưởng “môn đăng - hộ đối” ủng hộ!… TTKh đã dùng những
hình ảnh rất “đắt” để chỉ vài câu thơ thôi là đã lột tả được hình ảnh của một
đám cưới buồn, những cô áo đỏ là chỉ mấy cô gái bưng tráp dẫn Dâu và “tháp
tùng”cô Dâu về nhà chồng, màu đỏ là “màu vui” màu của sự ấm cúng ấy thế mà ở
đây nó lại tương phản với Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều đến thế?. . .
Do không có tình yêu đối với chồng, lại luôn tưởng nhớ, sống
trong hoài niệm về mối tình đầu vừa mới phải đắng lòng gạt lệ chia ly thì dù bà
Vân Chung có khéo cư xử đến mấy, giỏi “đóng kịch” đến mấy thì với thời gian
cũng sẽ “giúp” chồng bà cảm nhận được, hiểu ra được vấn đề và khi tình yêu “sét
đánh” ấy qua đi, tình yêu một phía cũng khó làm chồng bà “duy trì” được tình
cảm như thuở ban đầu, ở đời ai cũng vậy thôi, vì là lẽ thường tình trong tâm lý
con người, ta hãy đọc những vần thơ đầy nghẹn ngào của TTKh trước một thực tế
cũng thật là chớ trêu như thế:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Trong bài tùy bút, ông Thanh Châu viết: Cùng một mối cảm mà TTKh
có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,
còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm, thì rồi người ta đọc qua một lần rồi
cũng sẽ quên đi… khi ta đọc lại những bài thơ của TTKh và so với chuyện tình
đời thực của hai người thì thấy rằng, vì bà Vân Chung chính là người ở “trong
cuộc” bởi thế mới có được những câu thơ như ông vừa cảm nhận trên kia, còn
Thanh Châu, ông chỉ có thể tự tưởng tượng ra cảnh người yêu phải sống bên người
chồng không yêu thì làm sao ông “cảm thấu”cho hết được tâm trạng của bà? Đến
đây thì câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại viết những dòng tự sự như trên
đã trở nên rất dễ hiểu…
Ngày xưa thị xã Thanh Hóa vốn bé “tí tẹo” nên việc yêu nhau giữa
ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng có không ít người biết, phải chăng từ một
lý do nào đó chồng bà biết đươc “chuyện ngày xưa”của hai người? Hơn nữa, chớ
trêu là ở chỗ người mà mình yêu tha thiết, một tình yêu tinh khôi của tuổi đẹp
nhất đầu đời thì lại phải đành nuốt lệ chia xa, kẻ không yêu bỗng chốc trở
thành Phu - Phụ và khi người đàn bà không yêu thì họ rất khó thể hiện sự mặn
nồng mà người đàn ông nào cũng mong muốn, cho nên đối với chồng thì tình cảm lẽ
ra phải có ở những đôi lứa lấy nhau vì tình chỉ có thể trở thành một “nghĩa
vụ”… cho nên cái cảm giác vô cùng trống vắng khi đối diện với chính mình ở một
nơi xa lạ là một cảm xúc rất đời thường, có lẽ bà Vân Chung cũng không phải là
ngoại lệ. Ta hãy cùng “chia sẻ” nỗi niềm đó của TTKh:
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Hay:
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
Thông thường có một tâm lý khá phổ biến, đó là khi buộc phải
chia tay với người mình yêu vì bị gia đình ngăn cản với nhiều lý do khác nhau,
nhất là quan niệm ngày xưa “Cha, Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thì dù ta không hề có
lỗi, nhưng cái cảm giác “tội lỗi” đó không vì thế mà mất đi cộng thêm với tâm
lý thương người yêu, thương cả cho số phận mình, muốn “người ấy”cũng vẫn tưởng
nhớ đến mình, đồng thời lại sợ ảnh hưởng đến cả vấn đề “danh tiết” nên nó đã
tạo ra một tâm lý vô cùng bối rối, day dứt như ở giữa ngã ba đường, vừa muốn
gặp lại vừa sợ gặp “người xưa”vì không biết phải thanh minh, phải an ủi thế nào
khi chính mình cũng là nạn nhân, một nạn nhân yếu đuối của thời cuộc… bà Vân
Chung có lẽ cũng không nằm ngoài tâm lý đó và ta hãy đọc lời “tự sự” của TTKh:
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
hay:
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Sống trong xã hội phong kiến và trong một gia đình gia giáo với
tư tưởng “Cha -Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” còn khá nặng nề, việc bà Vân Chung
không thể cưỡng lại ý định sắp đặt cuộc tình duyên đầy ngang trái là một sự
thật không thể vượt qua, cho nên bà đành phải “nhắm mắt buông xuôi” cho số phận
bên cạnh người chồng không yêu và thời gian trôi đi với những công việc thường
ngày cũng đã phần nào giúp bà nguôi ngoai niềm thương nỗi nhớ, vậy mà khi đọc
được truyên ngắn Hoa Tigôn của tác giả lại là người yêu cũ (dù cho Thanh Châu
chỉ là bút danh) thì bảo sao bà không rung động bởi những hoài niệm cũ trở về
trong trái tim chất chứa những nỗi niềm u uất bấy lâu?Chúng ta cũng sẽ phải ngỡ
ngàng khi đọc những vần thơ sau đây của TTKh dường như cũng có cùng tâm trạng:
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Thời điểm cuối những năm 30 thế kỷ trước ở thị xã Thanh Hóa mới
chỉ có cầu cho đường sắt Bắc - Nam do người Pháp xây dựng, còn muốn đi theo
đường bộ, đi xe đò mà hồi đó nhà tư sản Bạch Thái Bưởi là người Việt đầu tiên
có hãng xe khách và tầu thủy chạy trên một số tuyến đường cạnh tranh với người
Pháp cũng như với Hoa kiều… thì những người sống ở thị xã phải vượt sông bằng
đò ngang với hình ảnh tiễn người đi bến cát xa, cũng lại rất phù hợp với mấy
câu thơ sau:
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Qua những phân tích và dẫn chứng ở trên, quả thật chúng ta thấy
rằng bà Vân Chung có một “Nhân thân” đời thật phù hợp với “hoàn cảnh” của TTKh
đến kỳ lạ, chúng ta hầu như không thấy có sự khác biệt nào giữa “Câu chuyện
trong thơ” so với chuyện tình ngoài đời của họ.
Có người nghi ngờ rằng, vào năm 1937-1938 bà Vân Chung mới có
18-19 tuổi thì làm sao sáng tác được những bài thơ hay đến thế? Thắc mắc này
không phải là không có lý nhưng nó lại quá phiến diện, bởi lẽ phải lý giải thế
nào đây khi hầu hết những nhà văn, nhà thơ thời tiền chiến (tức trước chiến
tranh thế giới thứ hai-trước năm 1939) cùng thời với Bà đều “thành danh” ở lứa
tuổi này, ta có thể kể tên các tác giả đương thời có sự nghiệp văn - thơ từ rất
sớm như: Xuân Diệu (sn 1916); Nữ sĩ Mộng Tuyết (sn 1918); Thâm Tâm (sn 1917);
Nguyễn Bính (sn 1918); Nữ sĩ Anh Thơ (sn 1921 - năm 1939 đã được giải thưởng
khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn) hay như tiểu thuyết Tố Tâm của Song An
Hoàng Ngọc Phách viết năm 1922 khi ông mới có ngoài 20 tuổi. . . so với ngày
nay thì với lứa tuổi mười chín đôi mươi mà đã có những áng thơ - văn như thế
thì quả cũng là sự lạ, phải chăng nhờ tập tục “Gái thập tam-Nam thập lục tác
hợp Phu-Thê” nghĩa là Gái 13 tuổi - Trai 16 tuổi là dựng vợ - gả chồng mà các
bậc tiền bối chững trạc và phát tiết tài năng cũng như sự mơ mộng từ khá sớm
như vậy?
Hơn nữa, với tình yêu thơ mộng đầu đời lại sớm phải chia ly đã
tạo nên một hoàn cảnh hết sức trái ngang và cay đắng “đóng dấu” vào tâm hồn vốn
lãng mạn của cô gái Vân Chung thì từ cảm xúc mãnh liệt ấy có trở thành những
vần thơ thấm đẫm nước mắt cũng có gì là khó tin đâu?
Trước và trong “thời kỳ TTKh” ông Thanh Châu có viết hai tác
phẩm. Một là truyện ngắn Hoa tigôn mà từ đó mới có thơ “họa” lại của TTKh, hai
là bài tùy bút Những cánh hoa tim được viết sau khi TTKh đã xuất hiện đầy đủ
với bốn bài thơ như muốn “kết” lại câu chuyện… xa Vân Chung ra Hà Nội, ông
Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy, một sự mất mát và hụt hẫng
không gì bù đắp được như ông đã “thú nhận” trong Những cánh hoa tim: “Vì tôi
thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả
tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu…”. Đó chính là sự chua xót về mối
tình duyên không thành giữa ông và bà Vân Chung mà nay ông đã xác nhận (với
trần Đình Thu). Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh
(Nguyễn Tường Tam) cũng được xuất bản, có quan điểm đả phá về tập tục phong
kiến vẫn ngự trị trong xã hội đương thời, dù với mục đích ấy thế nhưng Nhất
Linh vẫn không dám “sắp xếp”cho hai nhân vật Dũng và Loan trốn đi nơi khác để
cùng nhau xây tổ ấm mà phải để hai người chia tay nhau, Loan về nhà chồng còn
Dũng bước đi phiêu bạt giang hồ. Ấy là do hoàn cảnh xã hội khi đó chưa cho phép
có sự cải cách quá mạnh mẽ dù là trong tiểu thuyết, nhà văn chỉ dám “tạo nên”
cái chết tai nạn của người chồng như một sự giải thoát cho niềm bất hạnh của
nhân vật Loan khi phải sống bên cạnh người chồng giầu sang mà không có tình yêu
đôi lứa. Điều đó cũng cho thấy rằng những cô gái dù có “tân học” đến mấy cũng
không thể nào thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến “môn
đăng-hộ đối” khi sống trong thời đại ấy.
Hoàn cảnh của ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng tương tự như
hoàn cảnh của Dũng và Loan chứ không thể khác được. Tuy là trong truyện ngắn
Hoa Tigôn ông Thanh Châu đã “dũng cảm” khi dám “cho” nhân vật họa sĩ Lê rủ
người yêu Mai Hạnh trốn sang Nhật cùng mình xây dựng cuộc đời mới, thế nhưng
điều đó cũng chỉ là một giấc mơ xa vời khi người yêu của chàng họa sĩ cuối cùng
cũng không thể vượt qua được vòng lễ giáo. Cũng trong tùy bút Những cánh hoa
tim ông cảm thán: “ Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và
vò nát chúng đi trước một giàn hoa…bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong
tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu…” Thanh Châu vò nát những cánh hoa tigôn
nhỏ bé ấy vì lẽ gì? Phải chăng nó chính là “chứng nhân” của tình yêu một thuở
giữa ông và bà Vân Chung, những hoài niệm về mỗi bước chân nhè nhẹ dưới giàn
hoa Tigôn trước sân nhà nàng trong những buổi chiều hoàng hôn sắp tắt? Cho nên
các nhân vật trong truyện ngắn chỉ là cái hình hài bên ngoài để chứa đựng cốt
chuyện còn câu chuyện tình buồn của hai người mới chính là “linh hồn” của các
nhân vật vậy.
Vì thế, nỗi niềm của nhân vật, những hoài niệm đầy u uất, đầy
nuối tiếc về những “cánh hoa tim vỡ rơi lả tả mỗi chiều thu” cũng chính là nỗi
niềm của nhà văn Thanh Châu và bà Vân Chung người yêu ông, những lý giải đó đã
làm cho sự xuất hiện những bài thơ như cào cấu tâm can, như những tiếng kêu
than đầy ai oán của TTKh khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra mắt bạn đọc trở thành rất
dễ hiểu. Vào thời kỳ những năm 30 thế kỷ trước, những cô gái có tâm hồn lãng
mạn như bà Vân Chung đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy và tờ báo Phụ Nữ
cũng như những tiểu thuyết tình cảm khác. Vì thế khi đọc được truyện ngắn Hoa
Tigôn thì bà Vân Chung cũng đau lòng không kém gì nhân vật trong truyện và chắc
chắn bà cũng nhận ra được “người xưa” nhưng không phải chỉ bằng cốt chuyện mà
là do những ngôn từ quen thuộc chứa đựng bên trong (như Hoa tigôn-quả tim vỡ-
trái tim rớm máu…) hoặc cũng có thể còn ở chi tiết chàng họa sĩ rủ người yêu
trốn đi cùng mình…Vì thế, ở trong hoàn cảnh như vậy, nhất là với một người có
tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung thì việc làm thơ “đối đáp” lại cũng là điều
hoàn toàn có thể giải thích được, nhưng là người thận trọng sau khi biết chắc
chắn là “người xưa” rồi thì bà mới gửi tiếp Bài thơ thứ nhất như một dịp để nói
hết lòng mình do bài thơ đầu chưa tiện nói hết, còn lý do tại sao lại có Bài
thơ cuối cùng thì chúng ta cũng đã biết.
2-Thơ của TTKh ngày nay:
Khi đọc các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu cũng như những bài
thơ của TTKh ta thấy ngoài sự xuất hiện liên tục của loài hoa “chủ đạo” là hoa
Tigôn thông qua hình tượng khá đặc biệt là Trái tim, quả tim…thì chúng ta còn
thấy cả hai cũng thường nhắc đến Mùa Thu, chúng ta cũng đã biết mùa thu là lúc
bắt đầu của mối tình giữa ông Thanh Châu và bà Vân Chung - đúng như TTKh đã
viết: Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn để rồi Tôi chờ người đến với yêu đương
cho đến lúc kết thúc của cuộc tình không biết có phải cũng là một mùa thu hay
không?:
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Quả thật hình ảnh của mùa Thu vốn đầy lãng mạn nhưng cũng thật
đượm buồn, dường như là nó rất hợp với tình yêu dang dở và vì thế mà điều đó có
“đóng dấu” vào trái tim của những người trong cuộc thì cũng là lẽ tự nhiên như
cuộc đời vậy …Trong những bài thơ của bà Vân Chung thì có đến hơn một nửa là
viết về mùa Thu hoặc liên quan đến mùa Thu, phải chăng như những điều vừa phân
tích ở trên, mùa Thu đã mãi mãi ám ảnh Bà?Chúng ta cùng đọc mấy bài thơ về mùa
Thu của Bà mà Trần đình Thu sưu tầm được khi gặp bà Thư Linh:
BÀI THƠ CUỐI THU-1960
Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
THU CAO NGUYÊN-1960
Lá vàng gió cuốn bay vèo
Giật mình chợt nhớ: Ơ chiều vào thu
Xa xa sương phủ mịt mù
Ạt ào thác đổ âm u núi rừng
VÀO THU-12-8-1993
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong lũng vắng tiêu điều chiêm bao
Chợt cơn gió nổi xạc xào
Con chim lẻ bạn cánh chao hãi hùng
Vút bay trong cõi mịt mùng
Ngẩn ngơ người cũng phiêu bồng vào thu…
Cảm nhận đầu tiên khi ta vừa đọc xong mấy bài thơ trên là nó quá
bình thường, không xứng tầm với thơ của TTKh, thế nhưng điều đó mới là điều
đáng mừng vì như vậy mới đúng là… TTKh, đơn giản là bởi chẳng có nhà thơ nào,
ngay cả những nhà thơ được mệnh danh là “Chúa tể của thơ tình” thì cũng không
thể làm thơ hay cả đời được, dù cho cảm xúc có “dạt dào” đến mấy, thế nhưng cảm
xúc của con người lại vốn dĩ chẳng cái nào giống được cái nào, ví dụ như ta đau
đớn vì bị chính người yêu ta phụ bạc tất phải khác cảm xúc của kẻ chỉ được nghe
người khác kể lại, đấy là trường hợp xấu nhất trong rất nhiều ví dụ về cảm xúc
cần phải có để sáng tác ra thơ tình…
Như nhà thơ Vũ Cao cả đời chỉ làm được mỗi một bài thơ Núi Đôi
là còn mãi với thời gian, sau này ông vẫn làm thơ nhưng có lẽ bản thân tự thấy
không hài lòng nên ông không cho xuất bản?Ngay như nhà thơ Xuân Diệu ông chúa
thơ tình thì những bài thơ thật sự gọi là hay đến mức “để đời”cũng chỉ đếm chưa
hết mười đầu ngón tay, hơn nữa ngoài cảm xúc ra cũng còn cần phải có một hoàn
cảnh đặc biệt nào đó và cả hai cái “cộng hưởng” lại thì mới tạo ra được những
“tuyệt tác” nổi trội trong vô số những bài thơ vốn của cùng một tác giả. Điều
này đã giải thích tại sao bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lại tuyệt diệu
đến thế nếu như không có tấm ảnh chụp bến đò Vỹ Dạ mà người đẹp Hoàng Hoa gửi
vào trong lúc Chàng đang vô cùng tuyệt vọng nằm trên giường bệnh…
Trường hợp bà Vân Chung - TTKh cũng thế thôi, mấy chục năm trôi
qua nỗi buồn, nỗi nhớ rồi cũng dần nguôi ngoai lại sống một cuộc sống bình
thường cũng như sự bận bịu vì còn phải lo nuôi dạy con cái… thì còn đâu nữa cảm
xúc cũng như hoàn cảnh đặc biệt để Bà có thể sáng tác nên những vần thơ Trác
tuyệt như ngày nào? Cho nên ngày nay, có ai đó sáng tác được những bài thơ
“giống như”giọng thơ của TTKh và nhận mình là TTKh thì lại chắc chắn không phải
là… TTKh. vậy!.
Và nếu vẫn còn nghi ngờ thì bắt buộc chúng ta lại phải trả lời
cho bằng được câu hỏi: Liệu ở trong cuộc đời này có ai có “thân phận” phù hợp
với TTKh hơn bà Vân Chung không?. . . (Còn tiếp)
Ảnh: Bà Trần Thị Vân Chung-TTKh-Ảnh chụp năm 1960 tại Đà Lạt
Link các bài liên quan:
1. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh (tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn)
2. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKH ? - PHẦN 1
3. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh - KỲ 2
4. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 3
5. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 4
6. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 5
7. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 6
8. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ cuối cùng và hết
Nhận xét
Đăng nhận xét