KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKH ? - PHẦN 1
KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKH ? - PHẦN 1
Như chúng ta đã biết, sau khi gửi đăng báo đúng 4 bài thơ, TTKh không bao giờ xuất hiện nữa… nhưng điều đó lại càng gây nên sự tiếc nuối, sự say mê những vần thơ vừa đắm đuối vừa như cào cấu tâm can của cuộc đời người thiếu phụ bí ẩn này.
Người đời không những càng hâm mộ mà còn tò mò muốn biết tác giả là ai, tâm lý đó không chỉ có trong những độc giả thơ bình thường mà ngay cả các tác giả của “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh -Hoài Chân năm 1941 khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã phải cảm thán: “… Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết “Con người vườn Thanh” bây giờ ra sao? Liệu rồi đây người ấy có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về nơi chín suối?... ”. Vậy sự thật T.T.Kh có thể là ai?
1. NHỮNG LỜI ĐỒN ĐẠI, NHỮNG BÀI BÁO, TÁC PHẨM “KHẲNG ĐỊNH” VỀ THÂN THẾ TTKh
Rất nhiều người liên tục “công bố” những thông tin về TTKh. Người thì bảo tác giả là người yêu của thi sĩ Thâm Tâm, người lại bảo rằng đó là người yêu của Nguyễn Bính, thậm chí để cho “nặng ký” hơn có người còn khẳng định TTKh tên thật là Trần thị Khánh là em gái nhà thơ Tế Hanh, có một thời là người yêu của Thâm Tâm!?
Đến nỗi sau này Tế Hanh đã phải đăng đàn để chính thức phủ nhận điều đó. Ít lâu sau, câu chuyện về TTKh lại đổi sang một hướng khác: Khẳng định thơ của T.T.Kh là do Nguyễn Bính & nhất là do Thâm Tâm sáng tác…
Căn cứ để có những “công bố” & “khẳng định” nêu trên là: Vào khoảng cuối năm 1939 đầu năm 1940 Nguyễn Bính có làm một bài thơ nhan đề Dòng dư lệ với lời đề“ Tặng T.T.Kh” và ông có trích dẫn hai câu thơ “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ, Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên” của TTKh ngay dưới tiêu đề của bài thơ.
Còn với trường hợp của Thâm Tâm thì có vẻ có nhiều “dữ kiện” hơn, ta hãy cùng đọc một trong số đó là của nhà thơ Nguyễn Vỹ (Trong tác phẩm Văn - Thi sĩ Tiền chiến xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, mà trong đó còn thiếu quá nhiều các tên tuổi lớn đúng nghĩa của Thi sĩ thời Tiền chiến - tác phẩm này đã được tái bản năm 2007): “Năm 1936-1937, ở phố chợ Hôm - HN có một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân, Thâm Tâm & vài người khác nữa, ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ còn quá trẻ… mới bắt đầu viết văn chưa có gì là đặc sắc, lớp văn sĩ (đi) trước không chú ý đến họ… Họ có ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Bắc Hà… tờ báo bán không được chạy lắm nhưng cũng có vài mục hài hước nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm) & có nhiều hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất & đóng vai chủ động trong tuần báo là Trần Huyền Trân.
Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình thì vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng vài bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp nhất, trường tiểu học Hà Đông thi rớt rồi nghỉ học luôn. Tuy không chơi thân, nhưng tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều… vì anh trọ ở trong ngõ chợ còn tôi ở một gác trọ cuối phố Khâm Thiên… đôi khi có nhờ tôi viết bài cho báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút… tôi quen Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu… Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đến chơi nhưng Huyền Trân đi vắng,gặp tôi mới rủ Tuấn Trình về gác trọ… Đêm ấy cao hứng,Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể cho tôi nghe chuyện tình của anh với cô Khánh.
Trần Thị Khánh là cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến - Hà Nội) thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ nội trợ,nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi thờ Đức Khổng Tử… và những tấm bia khắc tên các vị Tiến sĩ khoa bảng… Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của một cô gái dậy thì, thùy mị, nết na,nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô nhà ở phố Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây & nhiều lần gặp cô Khánh đi chợ buổi sáng… Tuấn Trình làm quen rồi tặng cô báo Bắc Hà.
Cô gái 17 tuổi cảm mến người nghệ sỹ tài hoa, tình yêu chớm nở như cánh tigôn trắng cũng vừa chớm nở trong sân nhà cô… thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình,chính vào lúc này anh mới lấy bút danh là Thâm tâm & cho cô Khánh biết “Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào Thâm Tâm anh”. Trong bài thơ thức đêm làm tặng cô Khánh cũng có câu “…Quên làm sao được thuở ban đầu - Một cánh tigôn dạ khắc sâu…”.
Trong những bức vẽ trên tuần báo Bắc Hà vẫn ký tên Tuấn Trình, nhưng những bài thơ lại đều ký tên là Thâm Tâm… điều làm cho chàng nghệ sỹ 19 tuổi đau khổ nhất là cô gái 17 tuổi sống trong vòng lễ giáo nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình - Thâm tâm… Cô thường nói: “Thầy, mẹ em nghiêm lắm…” (toàn bộ cuộc tình) chỉ có hai lần là cô đến nơi hẹn,nhưng cũng không được lâu … cả hai lần họ gặp nhau đều ở trong vườn Thanh giám. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám… lần gặp thứ hai nàng có hỏi:“Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.
Chàng họa sỹ bối rối trước câu hỏi bất ngờ,chàng lơ đễnh bảo:-“Anh chưa nghĩ đến việc ấy vì…”. Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa… chàng đứng lại khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra. Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng: “Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh. ”Trần thị Khánh cười như để tạ ơn & xin từ giã. Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng?...
Thế rồi một hôm chàng họa sỹ đa tình nhận được một bức thư của người yêu, không, của người hết yêu báo tin nàng sắp lấy chồng… thư do cô bạn gái của Khánh đem đến tòa soạn báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình, cô bạn hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm…. trong thư cô nói dù rất buồn vì một tình yêu dang dở, rằng cô mãi mãi yêu anh nhưng phải giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời mẹ, cha… Khánh không nói một câu nào về vị hôn phu, không cho biết ngày cưới & cuối thư ký tắt: Kh. Bức thư của Kh chấm dứt đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy thơ mộng của họa sỹ Tuấn Trình & Trần Thị Khánh.
Sau nhờ dò hỏi Tuấn Trình biết được chồng cô khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ & không có con. Trong câu thơ Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi… đó chỉ là nhận xét mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi 20 của mình với người chồng cô khánh… Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh giầu sang & trẻ đẹp chứ không phải là một ông già... Đêm trước ngày cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa soạn báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính & Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ,làm thơ cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất. Người đau khổ trong việc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đang hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige (Kem Bạch Tuyết - Bờ Hồ) hai lần, hai ông bà nhìn nhau & cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai & được chồng săn sóc, nâng đỡ lên chiếc xe Citroen,lúc về còn đi một vòng quanh hồ hoàn Kiếm.
Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe & kết luận : “con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm nhục”. Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, chàng yêu nhớ đơn phương, mặc cảm của một nghệ sỹ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo nhất là Vũ trọng Can. Vì một chút tự ái văn nghệ với mấy người bạn kia. Tuấn trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là Hai sắc hoa Tigôn, ký tên TTKh với thâm ý để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình & lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Kh báo tin cô sắp lấy chồng.cô Khánh không biết làm thơ,chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác.
Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy,sau khi nhận được một bức thư của Khánh,bức thư cuối cùng tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ,có thể làm hại đến cuộc đời cô Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra Bài Thơ cuối cùng”...
Còn đây là bài viết của Bùi Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951)*: “Cuối năm 1949,trong một chuyến đi dài ngày từ Liên Khu 3 lên Việt Bắc,tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình)…chúng tôi là những người lữ hành ngày nghỉ, đêm đi. Trong lúc nghỉ ngơi anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những chuyện tâm tình liên quan với thơ. Chẳng hạn chuyện nhân vật gây nguồn cảm hứng để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng Tống Biệt Hành là một người tên Phạm Quang Hòa, trước 1945 thoát ly gia đình ra đi lên chiến khu làm cách mạng. Tôi đã hỏi anh Thâm Tâm, nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu, còn sống không? Anh Thâm Tâm cho biết Phạm Quang Hòa ra đi & trở về & đang tiếp tục cuộc sống của một người trai thời loạn. Nhân vui chuyện, tôi có hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên TTKh.
- Theo ý ông thì những bài thơ này của ai?
- Người ta nói là của người tình Thâm Tâm.Phải vậy không anh?
-Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307,ra ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
- Đã có đọc,có phải bài Các Anh không nhỉ?
- Đúng thế,tất cả đều liên quan tới một chuyện tình,nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên TTKh là do mình sáng tác ra cả thôi.
- Như vậy là Nguyễn Bính cũng bị vào “xiếc” trong câu chuyện này?
- Chuyện này chỉ có mình & Trần Huyền Trân biết thôi. Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng “ngây thơ” lắm.
- Câu chuyện này có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
- Địa danh vườn Thanh trong thơ là nói tới đất Thanh Miện ở Hải Dương,quê hương của trái vải. Nhưng Nguyễn Bính lầm tưởng là Thanh Hóa… do đó mới có chuyện vui vẻ.
- Tại sao anh sáng tác những bài thơ ký tên TTKh hay như vậy mà lại không làm loại thơ này nữa?
- Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”
Gần đây nhất, ngược lại với Nguyễn vỹ & Bùi Viết Tân thì tác giả Hoàng Tiến (bài đăng trên tuần báo Văn nghệ số cuối năm 1989 - nhưng theo ông Thế Phong thì bài viết này còn đăng trên báo Nhân Dân chủ nhật số 23-Tháng 7 năm 1989) lại viết như sau: “…Ông Hoài Thanh năm 1941 có soạn cuốn Thi Nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942, tác phẩm trên là của hai ông, còn Hoài Chân nữa chứ không phải chỉ có một mình Hoài Thanh) cũng trích dẫn TTKh với ghi chú: “sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, có đến mấy người nhất quyết TTKh chính là người yêu của mình & người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt tác”. Hôm nay, xin công bố với bạn đọc một thông tin chúng tôi được biết về TTKh, người kể còn sống, mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này. Số là vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay (Kỷ tỵ 1989) chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp nhà thơ trước C.M tháng tám, năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hòa) bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính & Trần Huyền Trân…
Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về Họ, Tên tác giả Hai sắc hoa Tigôn được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn & nhà thơ Tú Sót. TTKh tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu… xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng (qua) bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy… Tiếp đó để giải thích lý do viết bài thơ Hai sắc hoa Tigôn cô Khánh gửi đến một bài nữa với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất & viết riêng tặng Thâm Tâm Bài thơ đan áo. Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận ra người yêu của mình, trong số đó có Nguyễn Bính. Thâm Tâm hồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng Bài thơ đan áo** để minh chứng với thiên hạ rằng TTKh chính là người yêu của mình. Tất nhiên là không có sự đồng ý của TTKh & thế là TTKh giận. Cô viết bài thơ lấy tiêu đề là Bài thơ cuối cùng… Sau này Thâm Tâm có viết bài thơ Các Anh để trả lời TTKh …”
Còn nhiều nữa những “tác phẩm” những bài viết tương tự nhằm cố sống, cố chết ghép bằng được cho Thâm Tâm phải là TTKh hay chí ít TTKh cũng phải là “Người tình” của Thâm Tâm hay Nguyễn Bính (công bằng mà nói, Nguyễn Bính chỉ “bị” ghán ghép ở giai đoạn đầu của “nghi án” này mà thôi) đó là còn chưa kể lực lượng báo “lá cải” nhiều vô số ăn theo câu chuyện này nhất là ở Miền Nam trước năm 1975. Ở đây chỉ lược trích ba “tác phẩm” tiêu biểu & được nhiều người bám lấy nhất để “minh chứng” cho nhận định của họ về bí ẩn văn chương này suốt hơn 70 năm qua.
2. NGUYỄN BÍNH CÓ THỂ LÀ TTKh HOẶC LÀ NGƯỜI YÊU CỦA TTKh ĐƯỢC KHÔNG?
Đối với Nguyễn Bính,
việc chỉ dựa vào lời đề tặng TTKh ngay dưới tiêu đề của bài thơ Cô gái vườn
Thanh (Dòng dư lệ) và mấy câu thơ có vẻ hơi “dây mơ rễ má” với câu chuyện tình
của TTKh trong bài thơ nêu trên:
Truyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu gian khổ vì
tình
Cớ sao Giống hệt chuyện
mình năm xưa?
Phải chăng mình có nên
ngờ
Rằng người năm ấy bây
giờ là đây?.
mà vội cho rằng TTKh
chính là người yêu của ông thì quả là quá vội vàng, võ đoán & là một “chứng
cứ” quá yếu. Hơn 70 năm trước vấn đề “môn đăng - hộ đối” đã góp phần tạo nên vô
số những cuộc tình ngang trái cho nên khi xuất hiện những bài thơ đầy ai oán
của TTKh thì rất nhiều người sống ở thế hệ đó như thấy được hình ảnh, cuộc đời
của chính mình, và Nguyễn Bính cũng không phải là ngoại lệ, có thể điều đó đã
làm ông cảm thán mà viết bài thơ Cô gái vườn Thanh (Dòng dư lệ) như một việc
“họa” lại những bài thơ của TTKh chăng?. . .
Trong “Ghi chép dọc đường” có kể về “nguyên mẫu” cô gái trong bài thơ Người hàng xóm nổi tiếng của ông: “…Cô nết na, có vẻ đẹp thùy mị, hơi bẽn lẽn, giỏi chăn tằm, dệt cửi, nhà dù không nghèo lắm nhưng cũng chẳng được học hành gì… Về sau cha, mẹ cô gả cho một nhà khá giả trong vùng…”. Một cô gái ”chân quê” đúng nghĩa như vậy liệu có thể làm nổi những bài thơ da diết như TTKh không?Về phần Nguyễn Bính ngay trong những câu thơ trích dẫn ở trên cũng cho ta thấy bản thân ông cũng đã tự hồ nghi không dám chắc mà như tự hỏi lại chính mình rồi, ông viết “cớ sao giống hệt” chứ nào có khẳng định điều gì?
Ngay như chỉ có mỗi cái địa danh Vườn Thanh nằm ở đâu mà đã có ít nhất hai người viết khác nhau (Nguyễn Vỹ và Bùi Viết Tân) ấy thế mà người đời lại cứ vin vào đó coi như một trong những “bằng chứng” để kết luận TTKh là người yêu của ông thì quả thật là quá buồn cười…(nên nhớ, quê Nguyễn Bính là ở làng Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Trong bước đường phiêu du khắp nơi làm thơ, uống rượu sau này ông đã gặp, đã yêu rất nhiều và cũng có không ít những mối tình ngang trái. Nhưng đó là thời gian “hậu TTKh” còn vào thời điểm những năm trước & trong “thời TTKh” thì chưa có ai nói hay viết rằng cô Trần Thị Khánh hay một cô nào đó (ngoài cô gái “chân quê” nêu trên) là người yêu của Nguyễn Bính… Cho nên cái gọi là “cô gái vườn Thanh” hay địa danh vườn Thanh chẳng có liên quan gì tới ông cả vì hoàn toàn không có cơ sở & thiếu lô gích…
Vậy còn câu hỏi TTKh có phải chính là Nguyễn Bính? Trên đời này, chúng ta làm bất cứ điều gì cũng cần phải có mục đích, thế thì mục đích của Nguyễn Bính khi “núp bóng” TTKh là gì? Để nổi tiếng hơn chăng? có lẽ sẽ chẳng có ai lại dại dột làm cái điều có thể gọi là ngớ ngẩn như vậy & chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được “mục đích” của việc này là gì, bởi vì đặt sự việc đó vào hoàn cảnh nào ta cũng dễ dàng tìm thấy được sự vô lý, nhất là đối với một nhà thơ đầy tài năng & nhân cách như Nguyễn Bính.
Bây giờ chúng ta xét đến nội dung, hay cụ thể hơn là xét đến “giọng thơ” của các tác giả. Chúng ta cũng đã biết là nhà văn, nhà thơ nào cũng có lối hành văn, giọng thơ mang nét “đặc thù” của người đó, giống như bên âm nhạc thì “kiểu”ca khúc của Trịnh Công Sơn khác với Trần Tiến hay khác với Phú Quang v. v… Ta hãy tìm hiểu “giọng thơ” của Nguyễn Bính, của Thâm Tâm để có cơ sở so sánh với thơ của TTKh.
Tác giả Hoài Việt, một
người cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với Thâm Tâm, Nguyễn Bính… một
người có vài tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn, nhà thơ thời tiền chiến, ông
viết như sau: “…Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ
chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào
gốc liễu … cả ba đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo, không được học hành
trường lớp chính qui nhiều, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ
hầu như không có gì, ngược lại họ là những người được học nhiều chữ hán, chữ
nôm ở những ngôi trường làng hay tại nhà các ông Đồ, cả ba người từng thuê nhà ở
chung để viết văn, làm thơ, làm báo…”
Chính vì những lẽ đó mà
trong thơ của họ thường xuất hiện rất nhiều từ cổ, từ Hán-Việt. . . riêng
Nguyễn Bính thì ảnh hưởng bởi những điều đó không nhiều, ngoài vài bài thơ như
Hành Phương Nam ra, còn lại thơ ông mang rất đậm “chất quê” từ ngôn ngữ lẫn
hình ảnh với một phong cách “rất ca dao”…
Vào khoảng thời gian từ năm 1932 đến 1938 “Làng” thơ Việt cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản, đó là tìm sự thay thế thể loại thơ Đường luật gò bó bằng một thể loại thơ tự do mang “hơi hướng” phương tây, đó chính là phong trào Thơ mới
Tuy nhiên, vẫn có sự phân hóa khá rõ nét, một số nhà thơ muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức, trong khi một số khác lại không muốn bị “tây” hóa quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới về mặt hình thức thể hiện mà thôi. “Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của ảnh hưởng từ thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường luật, còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao-dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt thời Tiền chiến…”
Trong khi đó thì thơ TTKh lại mới từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh, trong thơ của Bà không hề có những từ Hán - Việt như: Ly khách, ải xa, trường thành, cô phụ, đoạn trường, ác tà, giang thôn… như Thâm Tâm, hay đặc chất quê, chất ca dao: Tơ vương, buồng the, hoa chanh, vườn chanh, giời mưa, giầu cau… của Nguyễn Bính. Đặc biệt những nhà thơ như Thâm Tâm, Nguyễn Bính thường dùng lối viết ẩn dụ “ý tại ngôn ngoại” của lớp nhà thơ “cổ điển” khi muốn nói về tình yêu đôi lứa, còn TTKh thì lại nói toạc ra: Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết… - Người ấy thường hay vuốt tóc tôi… - Tôi chờ người đến với yêu đương… Bây giờ ta hãy cùng đọc mấy đoạn thơ tả cảnh:
“Ở lại vườn Thanh có
một mình
Tôi yêu gió rụng lúc
tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi
trên áo
Yêu bóng chim xa nắng
lướt mành” (TTKh)
“Hơn một loài hoa đã
rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa
màu xanh
Những luồng run rẩy
rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương
mỏng manh” (Xuân Diệu)
“Thu sang trên những
cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá
vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra
ngoài sơn thôn” (Nguyễn Bính)
“Bừng sáng Xuân bay
tang tảng sương
Canh gà heo hút nẻo
giang thôn
Chài ai gấp gấp giăng
giăng bạc
Tiếng mác qua giời, dịp
sáo non” (Thâm Tâm)
Cùng là những câu thơ
tả cảnh, nhưng rõ ràng hai đoạn thơ trên của TTKh và Xuân Diệu “mới” hơn rất
nhiều, nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng nền thơ Pháp mà “Thế Lữ là người khơi
nguồn nhưng Xuân Diệu mới là người “đẩy” lên cho đến tận cùng…” chúng ta cùng
đọc mấy đoạn thơ tình:
“Lòng em như quán bán
hàng
Dừng chân cho khách qua
đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè
trôi
Chỉ về một bến chỉ xuôi
một chiều” (Nguyễn Bính)
Ngay cả khi viết thơ
tình Nguyễn Bính cũng vẫn không “bỏ” được “chất giọng” thơ chân chất Chân quê
& lối nói ẩn dụ. Trong khi đó, thơ của TTKh lại “hiện đại” hơn rất nhiều:
“Người ấy thường hay
vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy
tôi vui
Bảo rằng: Hoa dáng như
tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ
thôi” (TTKh)
“Anh biết yêu em đã
muộn màng
Nhưng mà ai cưỡng được
tình thương?
Ngậm ngùi tặng trái tim
lưu lạc
Anh chỉ xin về một chút
hương…” (Xuân Diệu)
Đến đây chúng ta có thể kết luận rằng “giọng thơ” của TTKh hoàn toàn xa lạ với “giọng thơ”của Nguyễn Bính mà lại rất gần gũi với chất thơ của Xuân Diệu ông “vua thơ tình” trong phong trào thơ mới thời bấy giờ. Để dẫn chứng thì còn rất nhiều & tốn thời gian vô ích, nếu tìm đọc thêm thơ của Nguyễn Bính thì chúng ta sẽ phát hiện ra không mấy khó khăn gì. Cho nên bảo rằng TTKh có liên quan gì đó với nhà thơ Nguyễn Bính là hoàn toàn thiếu thuyết phục!. . .
3.THÂM TÂM CÓ THỂ LÀ TTKh HOẶC LÀ NGƯỜI YÊU CỦA TTKh ĐƯỢC KHÔNG?:
Công bằng mà nói, nếu
ta đọc riêng một trong những bài viết nêu trên (của Nguyễn Vỹ, Bùi Viết Tân,
Hoàng Tiến hoặc của ai đó nữa…) vào những thời gian, không gian khác nhau thì
không phải là không “có lý” trong một chừng mực nhất định, nhất là lại chỉ đọc
lướt qua và chỉ một lần. Ngoài ra còn phải kể đến “hiệu ứng gơben” nhà tuyên
truyền đại tài của Đức quốc xã, đó là:“Một sự việc, dù không có thật cứ nói đi
nói lại nhiều lần sẽ trở thành sự thật! Nhất là sự lan tỏa của hiệu ứng truyền
khẩu với cái “Tôi” để bảo lãnh cho “sự thật” đó của những người ưa thì thầm…”.
Chả thế mà “bí ẩn” về TTKh đã tồn tại được hơn 70 năm sau kể từ ngày đó.
Nhưng khi ta đọc cả ba bài viết nêu trên cùng một lúc và đọc thật kỹ thì cũng sẽ thấy ngay được vô số điều vô lý. Không những trong cùng một bài viết có những chi tiết “đá hậu” nhau mà cả ba bài viết khi “đặt cạnh” cũng “đá” nhau không kém. Ta lấy ví dụ (dù hơi khập khiễng): Có ba cái bình sứ Bát Tràng được làm thủ công với cùng một mẫu, nếu để riêng rẽ ở ba phòng khác nhau thì sẽ rất khó phân biệt được cái nào đẹp hơn cái nào, chi tiết nào của cái bình nào không được “chuẩn” như hình mẫu. v. v… Nhưng nếu để cả ba cái bình ấy bên cạnh nhau thì sự phân biệt lập tức trở nên rất dễ dàng.
3A. TRẦN THỊ KHÁNH CÓ PHẢI LÀ TTKh?
Đọc thật kỹ cả ba bài
viết trên, nó gợi cho ta cái cảm giác như thể ta chót mua cho thằng con đôi
giầy nên ta phải bằng mọi cách “cố nhét” đôi chân của nó vào bằng được dù cho
đôi giầy đó có rộng hay chật. Chúng ta cũng đã thấy rằng TTKh là một câu chuyện
tình ngang trái , trong khi đó câu chuyện do Nguyễn Vỹ kể lại, chưa biết thực
hư thế nào thì rõ ràng đây là một câu chuyện phụ tình và một điều quan trọng là
tình yêu mà cô Khánh dành cho Thâm Tâm không lấy gì gọi là một tình yêu say đắm
để đến nỗi nhưng biết không lấy được nhau rồi xúc động tự thổ lộ câu chuyện
riêng (qua) bài thơ Hai sắc hoa Tigôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy như ông
Hoàng Tiến đã viết.
Trong cả cuộc tình hai người chỉ gặp nhau có hai lần ngắn ngủi và phải rất bí mật, có nghĩa là cả gia đình, họ hàng, hàng xóm, bạn bè của cô Khánh chắc chắn không biết hay chưa kịp biết và chồng của cô Khánh lại càng không thể biết, trong khi (theo ông Nguyễn Vỹ) cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô, thế thì liệu có “điên” không khi chính cô Khánh viết những bài thơ ký tên TTKh khóc than cho mối tình duyên “dang dở” của mình để rồi lại phải“Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ - Người ấy cho nên vẫn hững hờ” hay“Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá”.
Còn một chi tiết nữa, đó là mới gặp nhau có lần thứ hai (hồi đó thì làm gì đã có điện thoại di động hay internet để dù không gặp vẫn có thể “buôn”với nhau hàng ngày?) mà cô Khánh đã “Anh định bao giờ đến xin thầy, mẹ cho chúng mình”.
Thời “hiện đại” như ngày nay, xin hỏi các bạn gái của chúng ta có tin được không? Các bạn có “làm” được như cô Khánh không? Nên nhớ vào thời điểm có câu chuyện đó thì việc “đến xin với thầy, mẹ…” có nghĩa là phải cưới đến nơi rồi đấy và phải do các bậc “phụ huynh” đến nói chuyện chứ đâu phải là“Anh định bao giờ…” lẽ ra ông Nguyễn Vỹ phải viết là Anh định bao giờ đưa Thầy, u anh đến… mặc dù như thế cũng đã là quá đường đột rồi, không như ngày nay có thể chàng trai đến nhà chơi vài lần rồi mới dám ngỏ lời với cô gái hay ít nhất cũng cần phải có cả một quá trình qua lại mới có thể Anh định bao giờ … Còn nếu cho rằng cô Khánh nói vậy để ngầm nhắc và đề phòng người yêu trách cứ sau này rằng“Đấy, tôi đã bảo mà anh không chịu đến nói chuyện sau này tôi có lấy chồng thì đừng có mà trách…” thì việc gán cái mẹo ấy cho một cô gái 17 tuổi sống cách nay hơn 70 năm liệu có quá là khả ố hay không?. . .
Nếu chỉ xét riêng về
bảng chữ cái thì có vẻ TTKh đúng là Trần Thị Khánh, thế nhưng một cô gái đang
vô cùng hạnh phúc với chồng liệu có dám “nửa công khai” danh tính để tưởng nhớ
về một mối tình ngang trái và đầy nuối tiếc như vậy không? Vì điều đó chỉ có
thể xảy ra khi người thiếu phụ gặp bất hạnh trong hôn nhân (đấy là chúng ta
đang cố tình nói ngược lại những gì ông Nguyễn Vỹ đã viết, rằng Trần Huyền Trân
kể với…) và chuyện này cũng chẳng khác gì nhiều năm trước có vài tờ báo trong
nước nhân việc có ca sĩ hải ngoại phát biểu gì đó: “…cô ca sĩ KL chuyên hát
nhạc Trịnh…”. Viết như thế thà nói toạc ra là ca sĩ Khánh Ly cho nó nhanh. Hơn
nữa cô Khánh không biết làm thơ, chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài
thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Chúng ta tìm mãi cũng chẳng bao giờ thấy được lý
do và mục đích gì để tin rằng cô Trần Thị Khánh là TTKh, vì điều đó hoàn toàn
phi lý!. Chúng ta chỉ có thể tin rằng, việc cô Trần Thị Khánh là người yêu của
Thâm Tâm là có thể có thật và chỉ có vậy mà thôi. !
3B. TTKh CÓ THỂ LÀ
NGƯỜI YÊU CỦA THÂM TÂM ĐƯỢC KHÔNG?
Lý do để nhiều người
vin vào “rằng thì là” TTKh là người yêu của Thâm Tâm quả là rất buồn cười nếu
như không muốn nói là quá vớ vẩn, nó giống như toán học chứ không phải là một
câu chuyện văn chương: A=C ; C=B suy ra thì đương nhiên A=B, đó là vì Trần Thị
Khánh “chính là” TTKh vậy thì TTKh “phải là”người yêu của Thâm Tâm mà không có
bất cứ cơ sở nào như đã phân tích ở trên. Ông Hoàng Tiến viết: “Thâm Tâm hồi đó
còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăngBài thơ đan
áo để minh chứng với thiên hạ rằng TTKh chính là người yêu của mình…. ”chúng ta
cùng đọc lại vài khổ thơ trong Bài thơ đan áo:
“Chị ơi!nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều
đau thưong…”
hay: “…Lòng em khổ lắm
chị ơi
Trong bao ngờ vực với
lời mỉa mai…”
Ô hay, rõ ràng là “Chị
ơi” vậy mà ông Hoàng Tiến cố gán là: “…Viết riêng tặng Thâm Tâm và…để minh
chứng với thiên hạ” thì quả thật không còn gì để nói nữa và hóa ra ông cũng chỉ
“nghe hơi nồi chõ” như người ta rồi phóng tác ra câu chuyện cho thêm ly kỳ mà
thôi.
Đáng lẽ, ông Hoàng Tiến nên viết: TTKh viết tặng người chị và Thi sĩ Thâm Tâm để nói lên tâm sự của lòng mìnhthì còn khả dĩ chấp nhận được. Đấy là chúng ta đã cố mà hùa theo quan điểm của ông, chứ thực ra với riêng bài thơ này nó không hề có tác dụng “minh chứng” như ông đã cố áp đặt…có thể ông Hoàng Tiến định dùng câu thơ:
Chỉ có ba người đã đọc
riêng
Bài thơ đan áo của
chồng em
trong Bài Thơ cuối cùng
của TTKh để cố hướng bạn đọc tin rằng Thâm Tâm muốn chứng minh TTKh là người
yêu của mình chăng?. . . Nhưng ông lại cố tình quên một chi tiết vô cùng quan
trọng là: Bài thơ đan áo đã xuất hiện trước Bài thơ cuối cùng những vài tháng,
vậy thì nó “chứng minh” cái nỗi gì? Hơn nữa, đã “…nhưng biết không lấy được
nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này” mà lại
tự dưng“ xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng” với lý do khơi khơi chỉ vì vừa
đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu, trong khi điều quan trọng
nhất để một người nào đấy có được cảm xúc sáng tác nên những vần thơ buồn đến
nao lòng như thế là cần phải có“hoàn cảnh đặc biệt” vì một tình yêu ngang trái
thì tác giả lại không chứng minh được mà viết như vậy thì quả là quá võ đoán và
khiên cưỡng.
3C. THÂM TÂM CÓ PHẢI LÀ TTKh?
Song song với những bài
viết, lời kể như đã dẫn chứng ở trên, người ta còn dựa vào hai bài thơ vốn có
quá nhiều dị bản là bài thơ Các Anh và Màu máu Tigôn (theo cuốn Việt nam Thi
nhân tiền chiến thì liên quan đến TTKh ngoài hai bài thơ trên Thâm Tâm còn có
hai bài nữa là: Dang dở và Gửi TTKh) để cho rằng chính Thâm Tâm là TTKh (đáng
chú ý là dưới tiêu đề của bài thơ Màu máu Tigôn có đề là: “Gửi TTKh tác giả bài
thơ Hai sắc hoa Tigôn).
Tuy nhiên nếu đọc kỹ những bài thơ thật sự của Thâm Tâm sáng tác ta sẽ thấy “giọng thơ” của hai bài này quá khác so với thơ Thâm Tâm, chúng ủy mị, yếu đuối quá và “mới” quá…nội dung thì cũng chỉ xoay quanh những đối thoại của tác giả với người con gái nào đó lúc thì tên là Khánh, lúc chỉ viết tắt là K, hoàn toàn không thấy chi tiết nào cho thấy Thâm Tâm làm thay cho người mình yêu để mang tên TTKh… Chúng ta cùng đọc vài đoạn trong hai bài thơ nêu trên:
“Các Anh hãy chuốc thật
say
Cho tôi những cốc rượu
đầy rồi im…”
“…Vết xe trong xác pháo
xưa
Nàng đi có bốn bài thơ
trở về…”(Bài Các Anh)
“Người ta trả lại cánh
hoa tàn
Thôi thế duyên tình
cũng dở dang
Màu máu tigôn đà biến
sắc
Tim người yêu cũ phủ
màu tang…”
“…Anh biết làm sao được
hỡi Trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ
không thôi
Thôi em hãy giữ cành
hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một
cuộc đời” (Bài Màu máu Tigôn)
Nhưng cũng vẫn trong
hai bài thơ đó lại có những câu thơ “gây sốc” như sau:
“…Miệng chồng Khánh gắn
trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng
ngời còn mơ…” (Bài Các anh)
“…K…Hỡi! Người yêu của
tôi ơi!
Nào ngờ em giết chết
một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi
nhớ
Hình ảnh em hoài mãi
thế thôi…” (Bài Màu máu Tigôn)
Mấy câu thơ trên có thể
nói rằng vô cùng thô thiển, câu dưới lại như “réo tên” người mình yêu cho thiên
hạ cùng nghe thì liệu có phải là thơ của một thi sĩ đúng nghĩa, nhất lại là của
một nhà thơ tầm cỡ như Thâm Tâm?
Nhiều người cũng đã cho rằng: “Hai bài thơ trên không chắc là của Thâm Tâm, có thể ở đây có một sự tạo dựng hoặc thêm thắt nào đó nhằm tạo thêm sự ly kỳ cho độc giả. ” điều đó không phải là không có lý.
Phải chăng vì vậy mà trong những lần tái bản về sau các tác giả của Thi Nhân Việt Nam đã loại bỏ hai bài thơ nêu trên? Hơn nữa như ta đã biết thơ Thâm Tâm thuộc trường phái “cổ điển”dù ông có cố gắng trong trào lưu “thơ mới”nhưng qua các tác phẩm thơ của ông thì ta thấy cũng chỉ dừng lại ở mức độ “nửa cổ điển” mà thôi. Trong khi thơ của TTKh - Xuân Diệu - Thế Lữ - Vũ Hoàng Chương… đích thực là của những nhà thơ “tân thời”.
Theo bài viết của Bùi Viết Tân: “Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40, bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời và muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…” thì rõ ràng tác giả chỉ cố muốn thuyết phục mọi người tin rằng những bài thơ “tân thời” mang tên TTKh là do Thâm Tâm làm ra chứ hoàn toàn thiếu kiến thức về thơ (dù câu văn đã trích dẫn cũng khá lủng củng và không rõ nghĩa, nhưng ta cũng hiểu ý nhà thơ Thâm Tâm - nếu đúng lời ông nói, là ông cũng đã cố gắng “đổi mới”cách thể hiện theo đúng trào lưu thời bấy giờ). Thể hành cũng chỉ là một trong nhiều “chi nhánh” của thể thơ Đường luật cho nên nói rằng “. . Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”quả là không thuyết phục…
Trở lại với câu chuyện của Nguyễn Vỹ ta thấy ngay rằng đây là một mối tình “cho” nhiều hơn “nhận” và vô cùng thiếu vắng sự lãng mạn, không gian, thời gian cũng chỉ là có mỗi hai lần gặpnhau ngắn ngủi. Vậy thì với những “chất xúc tác” như thế, lại là “nạn nhân” của một mối tình phũ phàng cộng thêm những lời kể “như xát muối” vào lòng của Trần Huyền Trân, rồi “… Nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình…” và “…cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô…” nghĩa là chồng cô Khánh là một người đàn ông hơn hẳn mình thì liệu ông có thể tưởng tượng ra được một hoàn cảnh tình duyên ngang trái và đầy nước mắt như của TTKh để làm ra bài thơ cỡ như Hai sắc hoa Tigôn và những bài thơ sau này hay không?. Hơn nữa, với mục đích “… để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. . . ”(Nguyễn Vỹ) mà lại là: “…nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên TTKh là do mình sáng tác ra cả thôi. Chuyện này chỉ có mình và Trần Huyền Trân biết thôi…” (Bùi Viết Tân).
Thật là quá buồn cười vì khi đặt hai trích đoạn của hai tác giả trên cạnh nhau, lập tức chúng ta được thấy chúng “đá” nhau như thế nào và chúng ta cũng nhận ra rằng với cái “mục đích” như ông Nguyễn Vỹ đã viết (cứ tạm cho đúng là như vậy) thì Thâm Tâm quả là quá lẩm cẩm, vì những người bạn đó của ông thừa biết cũng như chứng kiến mối tình của ông với cô Khánh (nếu có) là như thế nào và cũng thừa biết cô Khánh không có khả năng làm thơ, vậy thì Thâm Tâm “lừa” được ai? mà thực ra cũng chẳng để làm gì cả.
Còn trong bài viết của ông Hoàng Tiến có chi tiết “…người kể còn sống, mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp…” thế nhưng tại sao ông không “Công bố ngay” mà lại phải để đến tận “… vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay (Kỷ tỵ 1989) chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội”mới công bố?Thì ra vì ông đang cố gắng đưa ra những cái gọi là “chứng cứ” như “nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm …” để cho thêm phần xác tín vì thế ông mới bị lúng túng trong việc sắp xếp thời gian tính như vậy, bản thân ông Phạm Quang Hòa (Lương Trúc) sau khi từ biệt bạn để đi làm cách mạng, dẫn đến nguồn cảm hứng để Thâm Tâm sáng tác nên bài Tống biệt hành nổi tiếng thì thực tế kể từ đó họ không hề gặp lại nhau, mà Thâm Tâm thì lại mất sớm từ năm 1950, có lẽ sau này vì ân tình, vì thương nhớ bạn, ông Lương Trúc mới tìm và sưu tầm lại những tác phẩm của Thâm Tâm chăng? mà với thời gian quá lâu ngày, lại trong tình trạng loạn lạc vì chiến tranh thì chắc cũng không thiếu sự “tam sao thất bản”… Từ những dữ kiện đã phân tích, giúp ta có thể hiểu ra rằng cả ba bài viết đã dẫn, thực ra cũng chỉ là một câu chuyện “nghe nói” được người nọ truyền tai người kia lúc trà dư tửu hậu mà thôi. Ngoài ra, theo những người bạn thân, những người có điều kiện gần gũi với nhà thơ Thâm Tâm như nhà thơ Vũ Cao (tác giả của bài thơ Núi Đôi) cùng làm báo Vệ Quốc Quân (tiền thân của báo QĐND ngày nay) cho biết thì ông “…là người có tình cảm kín đáo, nghiêm túc…ngay như bài Tống biệt hành anh, em nhắc đến Thâm Tâm rất cảm kích nhưng vốn là người khiêm tốn, anh không thích kể đi kể lại . Tiếc là anh đi sớm quá lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác với hơi thơ cũ…” thế thì những đoạn “đối thoại” mang nặng sự khoe khoang, mà lại với một người vừa mới quen trong bài viết của Bùi Viết Tân liệu có đáng tin không? và đây hãy xem ông Hoài Anh viết tiếp:“…Sau ngày giải phóng Thủ Đô năm 1954, tôi gặp các nhà thơ Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính mới ra tập kết (Nguyễn Bính mất năm 1956 tại quê nhà). Tôi kể lại việc tôi được đọc bài báo viết về mối tình của Thâm Tâm với TTKh, tức bà Khánh thì (cả) hai ông đều nói (là) chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ…ít lâu sau tôi vào thư viện của Viện khoa học xã hội tại Hà Nội thì thấy tờ Tập san Nhân Loại số 108 ra ngày 11/7/1958 tại Sài gòn…thời kỳ này báo chí tại Sài Gòn thường đăng các bài viết (hoặc đăng lại) bài của các cây bút miền Bắc di cư. Vấn đề TTKh lại được khai thác làm rùm beng cũng như chuyện của nhiều nhà văn khác trong số đó có không ít chuyện thất thiệt để câu khách…”
Như vậy, chỉ trong số những người được coi là “gần gũi” với Thâm Tâm nhất như Phạm Quang Hòa (nói là thơ TTKh là do cô Khánh sáng tác) -Nguyễn Vỹ ( kể rằng do chính Thâm Tâm viết) -Trần Huyền Trân - Nguyễn Bính (thì bảo chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ ) đã nói lên nhiều điều và minh chứng cho sự thiếu chính xác và thiếu cơ sở nếu như không muốn nói là bịa đặt của các thông tin về TTKh trước đây, cho nên điều đó chỉ có tính cách là những tin đồn mà thôi. . Chính vì tất cả những điều đã phân tích, đã dẫn chứng ở trên mà chúng ta có thể nói rằng:- Trước năm 2004 câu hỏi TTKh là ai trong suốt gần 70 năm qua vẫn chưa có câu trả lời… (Còn tiếp)
Link các bài liên quan:
1. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh (tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn)
2. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKH ? - PHẦN 1
3. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh - KỲ 2
4. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 3
5. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 4
6. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 5
7. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ 6
8. KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ TTKh – Kỳ cuối cùng và hết



Nhận xét
Đăng nhận xét